FREE Internet Phone calls

Hiện nay rất nhiều dịch vụ gọi phone miễn phí, mỗi loại có một đặc tính riêng biệt, như sau:

Viber  Với Viber bạn nói chuyện với mọi nơi trên thế giới, nhưng chỉ với những người dùng Viber.
Muốn sử dụng:
– với desktop, vào trang dưới, dùng cho máy Windows hay Mac
https://www.viber.com/en/download/
– với smartphone (hay tablet)
  – máy android : vào Google Play
  – máy Apple : vào App Store
để download apk Viber

TextNow:  Riêng TextNow, bạn có thể gọi bất cứ máy nào, người đó có dùng Textnow hay không, gọi được cả vào home phone (những dịch vụ khác không gọi được), nhưng chỉ dùng cho Bắc Mỹ (Mỹ và Canada)
với smartphone (hay tablet)
  – máy android : vào Google Play
  – máy Apple : vào App Store
để download apk TextNow

Facetime:
 Đây là dịch vụ của máy Apple: tablet hay smartphone. Rất tốt, gọi đâu cũng tới, nhưng chỉ gọi được cho máy apple.

FacebookMessenger:

Với những ai dùng Facebook sẽ sử dụng được Messenger, nói chuyện được với ai cũng sử dụng dịch vụ này.
Sau một thời gian sử dụng Facebook, tôi thấy rất tiện dụng. Khi đăng ký bạn cho biết học ở đâu, làm việc ở đâu…. nó sẽ gom lại cho bạn, bạn sẽ nối liên lạc được với những người quen đã mất liên lạc từ lâu. Các bạn trong nhóm CVA nên dùng Facebook, sẽ liên lạc với nhau dễ dàng.

Các bạn thắc mắc gì, cứ hỏi, tôi có ít nhiều kinh nghiệm về computer nên có thể góp ý với các bạn.



 

Khôi phục những di sản điện ảnh Sài Gòn trước 1975

  • Lê Hồng Lâm
  • Viết cho BBC Tiếng Việt từ Sài Gòn

BBC

Sau 1975, nếu văn chương và âm nhạc của miền Nam vẫn được lưu trữ chủ yếu thông qua các tác giả rồi dần dần được phổ biến trở lại qua các nhà xuất bản, các nhà xuất bản, trung tâm âm nhạc trong và ngoài nước, thì điện ảnh – vốn là một bộ môn nghệ thuật tổng hợp tốn kém và chủ yếu được quay bằng phim âm bản (negative) 35mm nên khó lưu trữ hơn.

Phim Ròm vs. Xích lô và những cái ‘án treo’

‘Bố già’ và 50 năm của một hiện tượng văn hóa

Nền điện ảnh miền Nam trong gần 20 năm tồn tại và phát triển đã sản xuất khoảng 300 bộ phim, nhưng sau năm 1975, hầu hết các bộ phim đều hư hỏng hoặc biến mất vĩnh viễn. Một số hãng phim còn lưu trữ được một số phim âm bản qua nguồn tư liệu của gia đình bắt đầu khôi phục trở lại những di sản của điện ảnh miền Nam thông qua các bản phim DVD nhưng chất lượng hình ảnh và âm thanh đều hư hỏng khá nhiều.

Tại Đại hội Điện ảnh Việt Nam Quốc Tế (Viet Film Fest) lần thứ nhất tổ chức vào năm 2003 ở California (Mỹ), bộ phim Người tình không chân dung được mang trình chiếu lại sau đúng 30 năm bộ phim ra mắt lần đầu tiên (1973). Ghi nhận lại buổi chiếu đặc biệt này và trao giải Lifetime Achiviement Award (Thành tựu trọn đời) cho nữ tài tử Kiều Chinh, ký giả Phạm Xuân Đài viết trên tờ Tập san Thế kỷ 21:

“Người tình không chân dung có thể nói là một phim bề thế nhất về đề tài chiến tranh của miền Nam, do hãng phim Giao Chỉ sản xuất. Tuy là sản phẩm của hãng tư do Kiều Chinh thành lập và Hoàng Vĩnh Lộc đạo diễn, phim vẫn được sự hỗ trợ của chính quyền và quân đội Việt Nam Cộng Hòa trong việc thực hiện. Ngoài Kiều Chinh là nhân vật nữ duy nhất, các diễn viên còn lại khá đông đảo, hầu hết là quân nhân đang tại ngũ: Vũ Xuân Thông, Nguyễn Mộng Hùng, Hà Huyền Chi, Dương Hùng Cường, Minh Trường Sơn, Trần Quang, Tâm Phan… Điều đặc biệt là sau khi quay xong, phim này đã bị cấm chiếu trong hai năm sau cùng phải do một cuộc bỏ phiếu cả chính Hội đồng Nội các (20/21 phiếu thuận) phim mới được trình chiếu cho công chúng vào năm 1973. Lý do cũng chỉ vì những hình ảnh hiện thực của chiến tranh (những ‘mộ bia như nấm’ trong nghĩa trang, cảnh quân nhân bị thương, bị chết…) mà Hội đồng Duyệt phim các cấp đều chùn tay không dám thông qua, vì lý do “dễ làm nản lòng chiến sĩ’. Tuy nhiên, tại Đại hội Điện ảnh Á châu 1973, phim đã được hai giải thưởng cao quý: Giải phim chiến tranh xuất sắc nhất và giải Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất dành cho Kiều Chinh.

Đúng 30 năm sau ngày Người tình không chân dung ra mắt ở Sài Gòn, nay xem lại tại đất Mỹ, đa số khán giả bàng hoàng. Thứ nhất, phim rất khá, dù đã qua đãi lọc của thời gian và của lòng người với biết bao ảnh hưởng mới mẻ của điện ảnh hiện đại. Thứ hai, cảm phục ý thức của nhóm thực hiện, mà ngày nay, khi cuộc chiến xong đã lâu và mọi sự đã lắng xuống, người ta mới càng thấy rõ ý thức cuộc chiến là ‘của chúng ta’ để bảo vệ những lý tưởng của chúng ta, đồng thời không che giấu cái cảm thức nhức nhối trước một quê hương tan hoang do chiến tranh mang lại.

Một mình diễn xuất của Kiều Chinh đã mang hết gánh nặng chuyển tải thông điệp ấy. Là một phụ nữ có người yêu tử trận, đang làm trong chương trình ‘tâm tình với chiến sĩ’ trên đài phát thanh Quân đội, Mỹ Lan (Kiều Chinh) một hôm quyết định xin, ra mặt trận để đi tìm một người mà cô chưa từng quen biết, một thính giả chương trình của cô mà cô chọn một cách bất chợt trong số hàng trăm lá thư gửi về đài hàng ngày.(…)

Một mình Kiều Chinh trong Người tình không chân dung ở tuổi 30, với một diễn xuất trầm lắng diễn tả một nội tâm mênh mông, nặng trĩu những đổ vỡ mất mát do cuộc chiến mang lại, đủ để đại diện cho lương tâm của người Việt trong cuộc chiến ấy. Cuộc chiến ấy đã qua, may mắn chúng ta vẫn còn ‘của tin còn một chút này’.

Đạo diễn Tony Bùi, đại diện cho thế hệ người làm phim ảnh trẻ (nói cách khác thuộc thế hệ di dân thứ hai) đã được vinh dự là người trao giải Lifetime Achievement Award cho tài tử Kiều Chinh. Cử chỉ ấy như một kết nối đầy thân ái giữa hai thế hệ, và là một biểu tượng ý nghĩa cho bước đường sắp tới của nền điện ảnh Việt Nam tại hải ngoại.”

Cùng với Người tình không chân dung, nhiều bộ phim khác như Chiếc bóng bên đường, Giỡn mặt tử thần, Chân trời tím, Nàng, Như hạt mưa sa, Như giọt sương khuya, Nắng chiều, Bão tình, Sóng tình… đều được tái phát hành dưới dạng đĩa DVD và được một vài nhà sưu tập cá nhân phổ biến thông qua kênh youtube. Tất nhiên, như đã nói, chất lượng của các bản phim này đều không được đảm bảo, đặc biệt là hình ảnh và âm thanh đều rất kém.

Tháng 9, năm 2013, một nhóm làm phim thuộc miền Nam cũ bao gồm đạo diễn Đỗ Tiến Đức, kiến trúc sư Trần Quang Đôn và ký giả Trùng Dương đã hội ngộ tại Westminter (California, Mỹ) nhân cuốn sách truyện phim Yêu được tìm thấy và dự định tái bản tại Mỹ. Yêu là bộ phim của hãng phim Nghệ thuật của một nhóm trí thức mong muốn thể nghiệm một hình thức kể chuyện mới trước 1975 nhưng bộ phim không thành công về mặt thương mại khiến hãng phim này nhanh chóng sụp đổ. Bản phim Yêu hoàn toàn thất lạc, nhưng kịch bản phân cảnh của bộ phim được in thành sách xuất bản trước 1975 thì được tìm thấy.

Trong bài viết “Cuộc đời trôi nổi của một cuốn sách”, ký giả Trùng Dương – một trong những nhà sản xuất của bộ phim, viết rằng:

“Cuốn sách mang tựa đề Yêu – phỏng theo tiểu thuyết Yêu của Chu Tử – nhóm Phim Nghệ Thuật thực hiện, truyện phim và phân cảnh do Đỗ Tiến Đức viết. Cuốn sách nay do nhóm Phim Nghệ Thuật xuất bản năm 1972 tại Sài Gòn.”

Trong chuyến công tác đến Mỹ để thực hiện dự án khảo cứu về điện ảnh Sài Gòn trước 75, tôi được ký giả Trùng Dương cung cấp một số thông tin về bộ phim và cuốn truyện phim được tìm thấy sau nhiều năm thất lạc. Bà cho biết đây là cuốn truyện phim và bản phân cảnh duy nhất được in ra và phát hành ở Sài Gòn trước 75. Nhờ nhà văn Nhật Tiến, đúng 41 năm sau, cuốn sách được trao tận tay đạo diễn Đỗ Tiến Đức và họ dự định in lại tập sách này với một số lượng hạn chế cho các thân hữu và thư viện.

“Thú thật là tuy tác phẩm này in từ năm 1972 ở Sài Gòn, nhưng nay thì tôi mới có dịp đọc tới”, nhà văn Nhật Tiến kể. “Nó đã mang cho tôi nhiều ngạc nhiên, không phải vì nội dung hấp dẫn của nó dựa theo tác phẩm Yêu của Chu Tử mà chính vì cái kỹ thuật viết phân cảnh rất công phu, rất tỉ mỉ, rõ ra là của một nhà đạo diễn chuyên nghiệp nắm vững nội dung và biết tính toán những thước phim sử dung trong mỗi cảnh đến từng giây đồng hồ. Nó đảm bảo cho cuốn phim phải được thực hiện chặt chẽ không dông dài và đồng thời tiết kiệm được những thước phim quý báu do xứ mình còn nghèo phương tiện”

Ký giả Trùng Dương cho biết thêm, kịch bản phân cảnh của Yêu sau đó được in lại tại Mỹ để lưu trữ lại một di sản của điện ảnh miền Nam và nhóm làm phim Nghệ thuật.

Tuy nhiên, các dự án khôi phục nói trên đều khá đơn lẻ và thông qua một vài cá nhân hay nhóm làm phim trước 1975 tại Sài Gòn dưới chế độ Việt Nam Cộng Hòa mong muốn lưu giữ những di sản cũ.

Dự án khôi phục điện ảnh miền Nam công phu và bài bản nhất đến nay là Project #SAVEOURFILMS của hãng phim Mỹ Vân. Đây là một trong vài hãng phim lớn nhất và sản xuất nhiều phim nhất tại Sài Gòn trước 1975.

Gần đây, nhờ một nguồn tài trợ của trường Đại học UCLA (Film and Television Archives), 10 bộ phim nhựa (35mm Positive prints) và bản phim gốc (35mm Color Negatives Films) của hãng phim Mỹ Vân đã được lưu trữ và bảo tồn trong tòa nhà mang kiến trúc Hy Lạp cổ do hội Packard Humanities Institute xây dựng (PHI STOA) để dành riêng cho việc cất giữ những bộ phim nhựa (cellulose base films) điện ảnh trên toàn thế giới.

10 bộ phim nhựa được phục chế và bảo tồn của hãng Mỹ Vân bao gồm:

1. Năm vua hề về làng (1974)

2. Triệu phú bất đắc dĩ (1973)

3. Người chồng bất đắc dĩ (1974)

4. Việt Nam trong ly loạn (1975)

5. Đứa con trong lửa đỏ (1975)

6. Sau giờ giới nghiêm (1972)

7. Chân trời tím (1971)

8. Từ Saigon đến Điện Biên Phủ (1970)

9. Quái nữ Việt quyền đạo (1974)

10. Sợ vợ mới anh hùng (1974)

Đến nay, Mỹ Vân đã hoàn thành bản phục chế bộ phim bề thế Chân trời tím với chất lượng 4K và phát hành dưới dạng đĩa Bluray và bản digital (kỹ thuật số) phát hành ở khu vực Bắc Mỹ.

Chân trời tím được quay tại miền Nam, Việt Nam vào năm 1970. Phim dựa trên tiểu thuyết cùng tên của nhà văn quân đội Văn Quang, được 3 giải thưởng văn học nghệ thuật do Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu trao tặng năm 1970; và giải Best Artitistic Expression tại LHP Châu Á năm 1971. Sau gần 47 năm, bản phim gốc đã được gia đình hãng phim Mỹ Vân tìm được như một nhân duyên. Bộ phim nay đã được phục hồi màu sắc và âm thanh với kỹ thuật digital của Hollywood rất tốn kém. Phim do đạo diễn Lê Hoàng Hoa thực hiện với sự diễn xuất của Hùng Cường, Kim Vui, Mộng Tuyền, Bảo Ân, Hà Huyền Chi, Ngọc Phu, Ngọc Đức, Bà Năm Sa Đéc, Khả Năng…

Trong cuộc trả lời phỏng vấn ký giả Tôn Thất Hùng ở Canada nhân bộ phim Chân trời tím được phục chế và tái phát hành, nhà văn Văn Quang chia sẻ:

“Tôi nhớ không lầm thì hãng phim Mỹ Vân ngày xưa ở Việt Nam cũng là một trong 7 nhà sản xuất phim Chân trời tím. Ngày nay hậu duệ của hãng Mỹ Vân đã được anh Phi Hà công phu làm mới lại để giới thiệu dưới danh hiệu Mỹ Vân Films 21. Phi Hà là cháu ngoại thừa kế của ông bà Mỹ Vân. Phim nhựa 35 ly xưa cũ trải qua trên 50 năm đã hư hỏng qua thời gian nhưng với kỹ thuật tân tiến của phim trường Hollywood đã được làm mới lại đến 90%.

Thật ra điện ảnh VN thời xưa còn khá nhiều những tác phẩm nổi tiếng rất hay, vậy mà phim Chân trời tím đã được chú ý đến đầu tiên. Tôi tự hỏi tôi đã làm gì trong thời gian đó? Câu trả lời này gần như không có đáp số. Có lẽ cần phải hỏi những vị đã có công phu tìm tòi khám phá ra giá trị của cuốn phim này”.

Cùng với Chân trời tím, hiện hãng Mỹ Vân đang tiến hành phục chế song song hai bộ phim Năm vua hề về làng (phim hài do nhiều đạo diễn và diễn viên ngôi sao đóng, chiếu Tết năm 1974) và Từ Sài Gòn đến Điện Biên Phủ, một bộ phim tình báo của đạo diễn Lê Mộng Hoàng quay năm 1969 tại Sài Gòn, Đài Loan, Hongkong. Nếu Năm vua hề về làng là một bộ phim hài với sự tham gia đông đảo của các diễn viên nổi tiếng thì Từ Sài Gòn đến Điện Biên Phủ là một tác phẩm tình báo, hình sự hấp dẫn với sự tham gia của Hoàng Vĩnh Lộc, Kiều Chinh, Thẩm Thúy Hằng… và các diễn viên Đài Loan, Hongkong. Bản phim này được Spectra Film and Video, N. Hollywood, khôi phục lại từ bản phim nhựa 35 ly positive, do hãng post-production Imagica (Far East Laboratory) Tokyo, Japan lưu trữ trước 30/4/1975 với chất lượng khá tốt.

Như vậy, dự án phục chế #saveourfilms của hãng Mỹ Vân có thể nói là dự án công phu và chuyên nghiệp nhất để phục hồi những di sản của điện ảnh miền Nam trước 1975 và tái phát hành đến công chúng của ngày hôm nay.

Dự án này cũng mở ra một triển vọng tìm kiếm và phục chế những bộ phim khác đang nằm ở đâu đó trong các bộ sưu tập cá nhân hay qua những Viện lưu trữ tại Việt Nam hoặc hải ngoại.

Kỷ Niệm ‘Tao Đàn’

Phan Lạc Phúc

Đầu năm 1956 tôi từ biệt nghề “chiến binh lội ruộng” về Phòng 5 bộ Tổng tham mưu làm sĩ quan thông tin báo chí. Lúc bấy giờ tôi chưa có vợ con gì, khoác cái ba lô lên lưng là có thể đi cùng trời cuối đất.

Về Sài Gòn chưa biết ở đâu, tôi sáp vô ở với bạn cũ Thanh Nam ở ngõ Nancy (đường Phan Văn Trị). Tôi và Thanh Nam chơi với nhau từ khi tôi từ ngoài khu về Hà Nội ăn dầm nằm dề trên căn gác phố hàng Bông nhà Nguyễn Thiệu Giang, tập tọng làm văn nghệ văn gừng dưới sự hướng dẫn của đàn anh Đinh Hùng. Trong nhóm chúng tôi ngày ấy ngoài Thanh Nam, Nguyễn Thiệu Giang còn có Nguyễn Minh Lang, Phan Nghị, Huy Quang Vũ Đức Vinh, những người Thanh Nam nhắc đến trong Bài hành tuổi 40 vài chục năm sau:

... Bạn cũ hãy nương theo rét lạnh
Về đây cùng nhập một cơn say
Chí lớn chia nhau đầy gác nhỏ
Bụi hồng chưa khiến tóc xanh phai

Dăm bảy lòng sông ôm biển cả

Coi đời dưới mắt nhẹ không ai
Cơn mê nhập cuộc sầu chưa bén

Thân thế chưa đau cát bụi này…

Hồ Điệp

Sau hiệp định Genève 1954, nhóm chúng tôi tan tác kẻ đi người ở. Theo anh Đinh Hùng vào Nam có Vũ Đức Vinh, Phan Nghị và tôi; Thanh Nam đã vào Saì Gòn trước, 1953. Ở lại có Nguyễn Minh Lang, Nguyễn Thiệu Giang. Bấy giờ (1956) tôi ở với Thanh Nam, gặp lại anh Đinh Hùng và có thêm những người bạn mới.

Ở cùng nhà ngõ Nancy lúc bấy giờ có nhà thơ Thái Thủy (tác giả Lá thư gửi mẹ), kịch sĩ, kiêm “ngâm” sĩ và vũ sư (múa Trấn thủ lưu đồn) Hoàng Thư, nhà báo Vũ Quang Ninh, quản đốc đài phát thanh Quân Đội. Một lũ “xê li bạt” ở với nhau, không có đàn bà, không có trẻ con, ăn uống tùy tiện, tối đến sải chiếu ra, chăng màn ngủ, mỗi anh một góc, không phiền ai. Nhà này trước đây còn có văn sĩ Tạ quang Khôi (xước danh Tạ ống khói) nhưng ít lâu nay ông “Ống khói” tạm biệt nơi này vô Đại học sư phạm rồi.

Nhà này phải để sàn rộng rãi là nó có lý do của nó. Ông Hoàng Thư thỉnh thoảng tập múa Trấn thủ lưu đồn nên phải có chỗ cho “vũ sư” tập dượt. Vũ sư mặc quần đùi, thân thể hom hem nhưng múa rất hăng, vừa múa vừa hát “Trấn thủ ấy mấy lưu đồn. Ngày thì canh điếm ấy tối dồn là việc quan, chém tre mà đẵn gỗ trên ngàn…”

Nhà một lũ độc thân nên anh em dễ dàng hội họp, gặp nhau “phùng trường tác hí”. Sải chiếu ra, ăn nhậu dài dài. Hay đến đây là đàn anh Đinh Hùng có khả năng đặc biệt vừa nằm vừa viết văn chương Tao Đàn mà chữ nghĩa vẫn rồng bay phượng múa. Có ông Vũ Khắc Khoan gõ muỗng vào ly mà “Hồ trường, hồ trường, ta biết rót về đâu”. Có ông Mai Thảo với ông Phạm Đình Chương rượu uống tì tì, càng uống mặt càng tái đi. Có ông Anh Ngọc say ngất ngư mà vẫn hát “Anh đến thăm em một chiều mưa”. Có ông Tạ Tỵ ngày Tết chạy sang, sải chiếu ra, rút bất.

Văn nghệ sĩ đến đây nhiều như thế nên người ta bảo ngõ này là ngõ “văn nghệ”, khu này cũng có khá đông anh em ta cư ngụ. Từ chợ Nancy quẹo vô ngõ Phan Văn Trị là nhà của nhà văn, nhà thơ kiêm “sáo sĩ” Tô Kiều Ngân. Đi thêm dăm chục bước chân là nhà Thanh Nam. Trước cửa nhà Thanh Nam là nhà Tạ Tỵ họa sĩ, văn, thi sĩ. Ngay cạnh nhà Thanh Nam là nhà ban Hợp ca Hạc Thành của anh em nhạc sĩ Nhật Bằng, Nhật Phượng, Thể Tần, Hồng Hảo. Xế bên kia một chút là nhà của ký gỉa lão thành Thượng Sĩ, nhà phê bình, điểm sách trên tờ Tin Mới của Hà Nội năm xưa, (nhà văn nữ Sài Gòn cô nương xuất hiện trên làng báo hải ngoại mấy năm gần đây là con gái anh Thượng Sĩ).

Năm ấy (1956) là thời kỳ cực thịnh của ban Tao Đàn phù hợp với giai đoạn khởi đầu của nền Đệ Nhất Cộng Hòa khi miền Nam Việt Nam vừa có một thể chế mới, một tương lai mới. Pháp đã rút hết về nước. Trên phương diện truyền thanh, các đài của Pháp như Pháp Á, Con Nhạn (Hirondelle) nhất loạt đóng cửa; đài quốc gia (lúc bấy giờ chưa có TV) cũng như các chương trình phát thanh có bổn phận phải “lớn lên” cho kịp với tình hình.

Ban Tao Đàn ngoài trách nhiệm đã được minh thị “tiếng nói của thơ, văn miền Tự Do” còn tiềm ẩn một nghĩa vụ “đem theo văn hóa của một triệu người miền Bắc vừa định cư ở miền Nam.” Thơ, văn Tao Đàn phần đông là văn hóa Bắc Hà, là những làn điệu của văn minh sông Hồng, sông Mã giao duyên cùng văn minh Hương Giang và Cửu Long Giang. Bao nhiêu năm đã trôi qua, bây giờ từ vĩ tuyến 17 trở vào trong, chúng ta có một lối ngâm thơ đã trở thành phổ biến: ngâm thơ Tao Đàn. Nó xuất hiện thường xuyên trong cải lương miền Nam hay bài chòi miền Trung. Nó là cái còn lại, là dấu ấn của văn nghệ sĩ đã đưa Tao Đàn vào đời sống văn hóa.

Người khai sinh và điều khiển chương trình Tao Đàn, như cả nước đều biết là thi sĩ Đinh Hùng. Năm 1956 tôi ở nhà Thanh Nam, nơi anh Đinh Hùng thường tới viết bài, các cộng sự thân thiết nhất của anh đều ở quanh đây nên có thể nói nơi đây là “đại bản doanh” của chương trình Tao Đàn.

Nha_tho_Dinh_Hung

Chương trình Tao Đàn có thể chia ra làm 3 bộ phận. Bộ phận quan trọng nhất là ban biên tập và diễn đọc gồm Đinh Hùng, Thanh Nam, Thái Thủy; vài năm sau có Huy Quang Vũ Đức Vinh từ Nha Trang vào cộng tác. Bộ phận thứ hai là ban ca ngâm gồm những tài tử nam, nữ trình diễn thường xuyên hay tùy hứng. Người “đa năng” nhất trong ban Tao Đàn là Tô Kiều Ngân. Anh vừa là tài tử diễn ngâm, vừa biên tập, vừa trong ban nhạc. Tiếng sáo Tô kiều Ngân réo rắt thường được coi là “indicatif” của Tao Đàn, hợp cùng tiếng đàn thập lục trầm bổng của Bửu Lộc, tiếng piano trầm ấm trước của Ngọc Bích, sau của Phạm đình Chương.

Về giọng ngâm nam ngoài họ Tô, còn có Hoàng Thư; một thời giọng ngâm Thanh Hùng cũng có góp tiếng trên đài. Tô Kiều Ngân tuy giọng không khoẻ nhưng anh là người ngâm “khéo” nhất, ngâm giọng Bắc, giọng Trung đều nhuyễn. Hoàng Thư có chất giọng say sưa, mạnh mẽ, được đời nhớ mãi trong Bài ca ngư phủ của Vũ Hoàng Chương. Thanh Hùng với giọng thổ pha kim, xuất sắc trong những tác phẩm bi hùng. Có những giọng ngâm không có mặt lâu năm trên đài nhưng vẫn được đời ghi nhớ như Quách Đàm trong những bài lục bát hay Thiếu Lang trong Hồ Trường của Nguyễn Bá Trác.

Về giọng ngâm nữ lúc khởi đầu phải nhắc tới cái ngọt ngào của Giáng Hương, nhưng các tay sành điệu đều không thể nào quên giọng ngâm đổ hột(*) đặc sắc của bà Đàm Mộng Hoàn, một danh tiếng vang lừng tại Khâm Thiên tiền chiến trong Tỳ Bà Hành.
Giọng ngâm nữ nhiều năm làm thổn thức trái tim thính giả là Hồ Điệp trong những bài thơ nức nở TTKH. Về sau, có một giọng nữ như sương như khói làm khởi sắc những vần ca dao dân tộc và những bài ca huyền sử. Đó là giọng ngâm Hoàng Oanh.

Sang đến thập niên ’60 (thế kỷ trước), sức truyền lan của Tao Đàn có sút giảm đi. Thi ca miền Nam Tự Do với một thẩm mỹ mới, một thẩm mỹ chênh vênh (esthétique de choc) đã ngự trị thi đàn.. Thơ có vần đang chuyển sang không vần của thơ Tự Do. Người ta ưa đọc thơ hơn là ngâm thơ. Nhưng đó lại là một vấn đề khác. Mỗi thời điểm có vấn đề riêng của nó.

Ngày xưa đàn anh Đinh Hùng có nói: “Mỗi một người bạn là một phần đời sống của mình”. Thoạt đầu, tôi nghĩ là đàn anh “bốc” đàn anh phán vậy thôi. Nhưng càng già càng thấy đàn anh nói đúng.

Bây giờ nói về thời gian sống ở ngõ Nancy còn lại những ai? Đinh Hùng, Thanh Nam, Thượng Sĩ, Hoàng Thư, Phạm Đình Chương, Vũ Khắc Khoan, Mai Thảo, Nhật Bằng, Tạ Tỵ, Phan Nghị… đều bỏ chúng ta mà đi rồi. Người gần nhất “lên đường” là Huy Quang Vũ Đức Vinh. Khi nghe tin Vũ Đức Vinh ngắc ngoải, hai ông còn lại ngày xưa hồi ở nhà Thanh Nam là Vũ Quang Ninh và Thái Thủy vội bay sang Seattle thăm bạn, tới nơi thấy bạn mình đã hôn mê nhưng khi nghe: “Vũ Quang Ninh, Thái Thủy sang thăm ông đây”, người hấp hối bỗng chảy hai hàng nước mắt. Vũ Đức Vinh người bạn thường gọi tôi “bạn cũ trên 50 năm” đã từ biệt chúng ta như thế.

Bây giờ còn có người mà kể lại (chuyện Tao Đàn); mai đây không biết còn kể lại với ai? Hồng Vân

Featured

CON NGƯỜI THẬT CỦA PHẠM DUY (1921-2013)

HTML clipboard


Lời nói đầu

Nghĩa tử là nghĩa tận. Trước một “nhân vật của quần chúng” (a person of the public) vừa nằm xuống, giữ im lặng là thái độ nghiêm chỉnh nhất. Nhưng sự ra đi của Phạm Duy là một ngoại lệ. Nhiều người khen quá độ. Nhiều người chê qúa lời. Nhiều người muốn khen, chê đúng mức mà không lên tiếng vì e ngại phản ứng của cả đôi bên. Đài BBC cũng tường thuật rất tỉ mỉ về đám tang của ông.

Hãy thử tìm con người đích thực của Phạm Duy qua tác phẫm, hành động và lời nói của ông để biêt nguyên do của cái dư luận ồn ào sau tin ông qua đời.


A. NHỮNG LÝ DO KHIẾN PHAM DUY ĐƯỢC NHIỀU NGƯỜI NHẮC TỚI

1. Ông là một nhạc sĩ được ngưỡng mộ bởi hàng triệu người Việt từ thế hệ trẻ tới thế hệ gìa, từ giới bình dân tới giới trí thức, từ thời chiến tới thời bình, từ chủ nghĩa Cộng Sản tới chủ nghĩa Tự Do, từ chính quyền độc tài tới chính quyền dân chủ, từ trong nước tới hải ngoại.

2. Cảm tình của quần chúng đối với ông rất phức tạp. Nhiều người khen. Nhiều người chê. Nhiều người vừa khen vừa chê. Nhiều người trước khen nay chê. Nhiều người trước chê nay khen.
Phe Việt Cộng, sau nửa thế kỷ căm thù ông, nay mua chuộc ông để làm mồi cho chiêu bài “Hòa Giải Dân Tộc”.
Phe Tự Do, qua nửa thế kỷ qúy mến ông, nay ruồng bỏ ông vì nghĩ rằng ông bị kẻ thù mua chuộc.
Những biểu lộ ấy (khen-chê, yêu-ghét, mua chuộc-ruồng bỏ) rất thường tình. Thiên hạ không ngẫu nhiên ( mà có lý do thầm kín) gán ghép cho ông. Ông cũng không cố ý gây ra. Lối phát ngôn vụng về và nếp sống buông thả của ông đóng một vai trò quan trọng trong sự phán xét của họ.

3. Những tác phẩm của ông, từ dân ca, tình ca, quân ca, đạo ca, nhi ca v.v… đều có gía trị độc đáo : mang âm giai ngủ cung hài hòa của dân tộc và lời ca truyền cảm của ca dao.

4. Nhạc phổ thơ của ông là một tuyệt kỹ. Giới truyền thông đã liệt ông vào hàng “phù thủy” của loại nhạc này. Dù phổ nguyên văn bài thơ (như Ngậm Ngùi của Huy Cận) hoặc chỉ lấy ý thơ (như Tiếng Sáo Thiên Thai của Thế Lữ) ông cũng làm cho thơ tăng thêm gía trị.

5. Đời tư của ông có một vài tì vết. Ông sống buông thả theo thú vui xác thịt, bất chấp hậu qủa (vụ Khánh Ngọc và Julie Quang) khiến những người đạo đức khinh bỉ và những người đối lập khai thác.

6. Lòng yêu dân, yêu quê, yêu nước trong những tác phẩm của ông rất hiển hiện. Một người có tình yêu gỉa tạo không thể nào làm được những bài Tình Ca, Tình Hoài Hương, Quê nghèo, Về Miền Trung, Bà Mẹ Gio Linh, Nhớ Người Thương Binh, Vợ Chồng Quê, Em Bé Quê, Ngày Trờ Về, Con Đường Cái Quan, Mẹ Việt Nam, v.v…

B. KIỂM ĐIỂM NHỮNG LỜI KHEN

Hầu hết những người khen đều công nhận rằng ông là một “đại thụ” của nền tân nhạc Việt và là một nhạc sĩ có thiên tài, có lòng yêu dân, yêu quê, yêu nước chân thành.. Có người đã tặng ông những đức tính mà thực sự ông không có (như khiêm nhượng, cao siêu). Thậm chí, có người còn vinh danh ông là chiến sĩ chống Cộng hoặc nhà tư tưởng thâm thúy. Những nhận xét như vậy chỉ đúng nửa vời:

1. Qủa thực ông là một đại thụ của nền tân nhạc Việt. Nhưng đại thụ ấy có tỳ vết: ông đã 2 lần vi phạm luân ký Việt (vụ Khánh Ngọc [*] và Julie Quang [**]).

2.. Ông không khiêm nhượng mà còn háo danh. Một thí dụ: Trong cuốn video Paris By Night 19, ông trả lời ký gỉa Lê Văn của đài BBC : “Tôi muốn hậu thế nhắc đến tôi như một người Việt Nam”. Khiêm nhượng thay câu trả lời! Nhưng cũng trong cuốn video ấy ông nói : “Tôi sẽ làm trường ca Hàn Mặc Tử bởi vì tôi đã có 10 bài Đạo Ca cho Phật giáo thì tôi cũng phải có một bài cho Công giáo mới công bằng”. Thế ra ông là người ban phát ân huệ cho 2 tôn giáo này ! Nét háo danh đã lộ liễu trong lời nói vụng về ấy.

3. Ông không phải là một chiến sĩ chống Cộng mà chỉ là một nhạc sĩ muốn được sinh hoạt văn nghệ mà không bị chỉ đạo bởi chính quyền. Ông bỏ Kháng Chiến về Thành không phải vì muốn xả thân cho lý tưởng chống Cộng mà vì muốn gia đình được sống thoải mái trong chính thể Dân Chủ và bản thân được tự do sắng tác theo tiếng nói của con tim.
Ông đã hưởng trọn vẹn ân huệ của những người đã hy sinh để bảo vệ chế độ dân chủ tự do cho gia đình ông sống yên vui. Bù lại, ông đã đền đáp công ơn của họ bằng vài trăm bài ca bất hủ xưng tụng những thứ cao đẹp mà họ trân qúy. Tuy ông không hy sinh xương máu cho chính nghĩa tự do nhưng ông đã góp phần không ít vào việc tô điểm nó. Tuy ông có nhiều điểm đáng khen nhưng không nên tặng ông cái vinh dự mà ông không xứng (chiến sĩ chống Cộng).

4. Ông không phải là một nhân vật thâm thúy. Suốt đời, ông chưa nói được một câu nào xứng đáng cho danh hiệu ấy. Một bài nhạc của ông có câu : “Đừng cho không gian đụng thời gian”. Ông mượn ý đó trong thuyết Tương Đối của Albert Einstein (Einstein cho rằng chỉ có không gian, không có thời gian vì thời gian chỉ là phương tiện để đo lường không gian; thí dụ: hai thiên hà cách xa nhau một tỷ năm ánh sáng). Có người đã xin ông giải thích câu đó nhưng ông chỉ trả lời loanh quanh, vô nghĩa, chứng tỏ ông đã không hiểu ông muốn nói gì.
Thật là khôi hài khi một anh chàng văn sĩ VC nói câu này trong đám tang của ông : “Nhạc Phạm Duy còn thì tiếng ta còn, tiếng ta còn thì nước ta còn”. Hắn nhái câu thậm xưng của Phạm Quỳnh trong thập niên 1930 : “Chuyện Kiều còn thì tiếng ta còn, tiếng ta còn thì nước ta còn”.
(Cũng nên mở một dấu ngoặc ở đây để nói rằng đừng vì một câu của một lãnh tụ CS ca ngợi ông mà chụp cái mũ “thân Cộng” cho ông).

C. KIỂM ĐIỂM NHỮNG LỜI CHÊ

Những lời chê ông nở rộ trong 2 thời kỳ.
1. Thời kỳ thứ nhất từ năm 1950 tới 2005
Khi ông bỏ Kháng Chiến về Thành, VC đã chê ông là phản động.
Ông đã không phản động mà chỉ phản Cộng.
Phản Cộng vì Cộng không thể cung cấp những nhu cầu căn bản (cơm ăn, áo mặc) cho gia đình ông và không cho phép ông phục vụ văn nghệ theo sở trường mà còn buộc ông phải khai tử một bài hát vô tội (innocent): bài Bên Cầu Biên Giới. Giản dị thế thôi.

2. Thời kỳ thứ hai từ 2005 cho tới nay
Khi ông quyết định trở về VN để sống nốt tuổi gìa, một số nạn nhân bị CS đày đọa đã chê ông là phản bội những anh hùng chống Cộng.
Công bằng mà xét thì ông không phản bội ai cả. Lý do ông trở về quê bây giờ cũng giản dị như lý do ông về Thành thuở xưa.

Ở Hoa Kỳ, các con của ông không có nghề ngỗng gì ngoài nghề ca hát mà nghề này thì không cung ứng đủ những nhu cầu vật chất cho chúng. Cộng đồng người Mỹ gốc Việt không bao bọc nổi vài trăm ca nhạc sĩ Việt. Những người lớn tuổi, đã về hưu, gắng gượng mới có tiền dự những buổi đại nhạc hội được tổ chức xuân thu nhị kỳ vì. Giới trẻ trung thì thích nhạc Mỹ vì nó phong phú hơn, sống động hơn, giật gân hơn, hợp nhĩ hơn. Bản quyền sáng tác nhạc không được tôn trọng. Đĩa nhạc được sao chép và bán rẻ rúng công khai trong mọi tiệm nhạc. Sống nhờ trợ cấp xã hội thì không cam lòng. Chìa tay nhận 2000$ để phổ nhạc vài bài thơ “con cóc” của “vô thượng thiền sư” Thanh Hải thì tủi thân cho một nhạc sĩ tài danh như ông.

Giữa lúc nghèo túng thì cơ hội chợt tới : một khế ước trị gía 400 ngàn đô-la trong 4 năm để sưu tầm, hòa âm, trình diễn tất cả những bài ca do ông sáng tác tại VN từ 1945 tới 1975. Khế ước đó không buộc ông phải hòa âm những bản nhạc của VC hoặc sáng tác những bài ca mới cho VC. Thính gỉa của ông sẽ chỉ là những người thích nghe nhạc Phạm Duy bất kể chính kiến. Có thể ông đã biết một cái bẫy vô hình ẩn sau khế ước đó : sách lược“Hòa Giải Dân Tộc” của VC đang ở cao điểm trong thời gian này. Một người có “khí tiết” ắt không chấp thuận. Nhưng Phạm Duy không phải hạng người có khí tiết. Ông không thích sống “gương mẫu” mà thích sống thoải mái, buông thả, sung túc như thường tình.

Thế là ông đưa gia đình về quê hương sống ung dung trong 8 năm cho tới khi ông từ trần. Ông rất thích câu của ai đó nói rằng : “Về đi thôi! Kiếp sau biết có hay không?”. Tính tình của ông khác đời ở chỗ : rất thích thú khi được khen và rất ít phiền hà khi bị chửi.

Trong 8 năm ấy ông đã gặp đủ hạng người, trong mọi lứa tuổi : ca nhạc sĩ đã quen hoặc chưa quen, thính gỉa yêu nhạc của ông dù đã biết hoặc chưa hề biết tên ông, lãnh tụ CS kể cả những người đã từng cấm hát nhạc của ông như Võ Văn Kiệt, Tố Hữu và Trần Bạch Đằng, người đã tuyên bố một câu vô liêm sỉ năm 1989 : “Phạm Duy hãy tự sát đi ! Chúng tôi sẽ cho phổ biến nhạc của ông ta”. Dĩ nhiên ông không thể từ chối gặp mặt những lãnh tụ CS đã mở đường cho ông trở về. Cũng không đáng phàn nàn nếu ông muốn gặp một vài lãnh tụ CS đã chơi thân với ông trong thời kháng chiến chống Pháp. Ông rất dễ tính và vô tư trong việc gặp bạn cũ, chuyện làm qùa chỉ là chuyện tếu hoặc kỷ niệm xưa, không bàn về chính trị. Chả có gì đáng trách cho những cuộc gặp gỡ lấy lệ hoặc xã giao như vậy.

Có một điểm son đáng ghi nhận : ông không hề bợ đỡ một lãnh tụ CS nào và cũng không hề nói súc phạm tới bất cứ ai của chính thể VNCH trong suốt thời gian 8 năm ấy (cựu phó tổng thống Nguyễn Cao Kỳ đã phạm lỗi này).

Tôi muốn tóm tắt thái độ của Phạm Duy trong một câu sơ sài : Khi sáng tác thì tận tình, khi vui chơi thì tận hưởng, khi nói năng thì thì tận tục. Duyên Anh đã thuật lại rằng Phạm Duy, trong lúc đùa rỡn với bạn bè, đã nói trong hơi men : “Ai ngu mới thích nghe nhạc của tôi. Chúng đã được làm trong cầu tiêu”. Có lẽ ông đã làm những bài Tục Ca trong cầu tiêu.

D. KẾT LUẬN

Nhạc sĩ tài danh Phạm Duy là một người đáng thương hại nhiều hơn là đáng trách cứ. Cuộc đời của ông trôi nổi qua nhiều vinh nhục, thăng trầm. Ông thích sống buông thả và chỉ có một tham vọng tích cực (productive) : sáng tác những bản nhạc có gía trị.

Lối phát ngôn của ông thuộc loại Tú Xương (“Một thày, một cô một chó cái” hoặc “Cao lâu thường ăn quịt, gái đĩ lại chơi lường”). Từ 50 năm nay, chả có ai coi ông như một “qúy nhân”. Họ mến ông vì ông đã cống hiến cho họ nhiều bài ca bất hủ, và đi chung với họ trên một đoạn đường dài nhất của cuôc đời để cùng nhau “khóc cười theo mệnh nước nổi trôi”.

Ông chưa bao giờ là công cụ của CS. Trong 5 năm theo Kháng Chiến chống Pháp, ông chưa hề làm một khúc ca xưng tụng một lãnh tụ CS nào mà chỉ xưng tụng những anh hùng, liệt sĩ chống ngoại xâm. Tới khi cáo hồ ló đuôi thì ông bỏ chúng về Thành.
Ông cũng chưa bao giờ là công cụ của chính quyền độc tài. Trong 25 năm sống trong chính thể Quốc gia, ông chưa hề làm một ca khúc suy tôn lãnh tụ nào. Những

bài hát “xây dựng nông thôn” là những bài làm ra bởi một tác gỉa công chức hơn là bởi một nhạc sĩ chuyên nghiệp; chúng đã không thọ lâu.
Khoảng 100 bài ca bất hủ của ông đã đi sâu vào mọi làng xóm của thôn quê, mọi ngõ ngách của thành thị rồi “di tản” ra ngoại quốc để ve vuốt nỗi cô đơn của vài triệu người sống lưu vong.

Cuộc “trở về quê” của ông chỉ tổn thương cho thanh danh của cá nhân ông, không có ảnh hưởng đáng kể tới tinh thần chống cộng của quần chúng. Chả có ai “hòa giải dân tộc” với VC chỉ vì Phạm Duy đã hồi hương. Sự hòa giải ấy sẽ không bao giờ xảy ra. Nói cách khác, chỉ có hòa giải khi nào chính thể CS bị giải thể hoàn toàn. Còn nữa, chỉ có lực lượng của quần chúng ở trong nước mới có khả năng giải thể chúng. Vậy thì chả nên qúa quan tâm tới cái sách lược “Hòa Giải Dân Tộc” của chúng. Nó đã chết ngay sau khi vừa sinh ra. Chả nên chia sớt bớt nỗi căm thù VC rồi xối vào những ca nhạc sĩ như Phạm Duy, Từ Công Phụng, Khánh ly, Lệ Thu, Chế Linh v.v… Có một cái gì “bất đắc dĩ” trong viêc trở về của họ (như đã nói ở trên). Vả lại, họ không đem đô-la về nước để góp thêm ngoại tệ cho VC (như một số thương gia và những kẻ ham du hí) mà còn tiêu bớt ngoại tệ của chúng (lãnh thù lao bằng đô-la). Hãy thông cảm cho họ (thông cảm không có nghĩa là cổ võ cho người khác trở về) miễn là họ chỉ thân thiện với dân, chỉ hát cho dân nghe những bài ca mà chúng ta chấp nhận và không nói lảm nhảm, súc phạm tới tinh thần chống Cộng.

Riêng đối với Phạm Duy, hãy để cho ông yên nghỉ, gọi là đáp lễ những bài ca bất hủ mà ông đã cống hiến trong suốt cuộc đời ông. Nghĩa tử là nghĩa tận. Có cả ngàn người (phần lớn là thường dân) đã tiễn đưa ông tới nơi an nghỉ cuối cùng. Vài nhóm trong số người này vừa khóc vừa đồng ca trước mồ ông một số bài chọn lọc, trong đó có bài Tình Ca và một bài chưa được chính quyền VC cho phép (Những Gì Sẽ Đem Theo Vè Cõi Chết). Từ vạn dặm, chúng ta hãy gửi tới ông một chút thương cảm, một chút ngậm ngùi, một chút vị tha. Người yêu chuộng tự do lúc nào cũng tôn trọng tự do ngôn luận (trong đó có tự do chọn lựa lối sống) hơn bất cứ điều gì trên đời./.
 

–Bác sĩ Nguyễn Văn Bảo
http://sinhhoatdoisong.blogspot.com/2013/02/con-nguoi-that-cua-pham-duy.html
==========================

Vụ Khánh Ngọc [*] Ăn chè ở nhà bè

Nhà Bè thuở ấy vắng vẻ chứ chưa có nhà hàng bán cá chìa vôi và sốt đất như bây giờ. Và chắc chắn lại không có một quán bán chè hay cháo nào hết. Nhưng sau khi vụ án tình giữa Phạm Duy – Khánh Ngọc xảy ra thì cụm từ “ăn chè Nhà Bè” được nhắc đến nhiều.
Theo báo chí ngày đó tường thuật thì nhạc sĩ Hoài Bắc đã nghi ngờ cuộc tình của vợ mình với người anh rể nên rắp tâm theo dõi (vợ Phạm Duy là ca sĩ Thái Hằng, chị ruột của Hoài Bắc Phạm Đình Chương). Một đêm xui cho đôi tình nhân này, Phạm Đình Chương và một vài người trong gia đình đã bám theo chiếc xe Studebaker chở Phạm Duy – Khánh Ngọc trên đường đi Nhà Bè. Do không kềm chế được cảm xúc nên Phạm Đình Chương đã cho chiếc xe Traction chặn đầu xe của Phạm Duy lại. Hiện trạng chỉ như thế chứ chưa kịp đi đến giai đoạn “nụ hôn ao ước” hay trong phòng tối sờ soạng. Cũng cần biết là thời chính quyền Ngô Đình Diệm chuyện “thuần phong mỹ tục” rất là gắt gao. Sau đó cả hai ra tòa và Khánh Ngọc được quyền nuôi dưỡng đứa con trai.

Từ vụ án tình này, trên mặt báo cũng như ngôn ngữ đời thường thì hai chữ “ăn chè” được dùng để chỉ những cuộc tình vụng trộm với hàm ý châm biếm.
–Lê Văn Nghĩa

Vụ Julie Quang [**] Có những lời đồn tại về chuyện ông Phạm Duy có quan hệ với con dâu Julie Quang, vợ của Duy Quang, con trai ông.
 


Links in the message (1)

Lời tự thú của hacker Việt sau 7 năm ngồi tù ở Mỹ

Ở đỉnh cao “sự nghiệp” tội phạm mạng, hacker có biệt danh Hieupc kiếm được 125.000 USD mỗi tháng nhờ cung cấp dịch vụ đánh cắp danh tính người dùng.

Ngô Minh Hiếu, sinh năm 1989 ở Gia Lai và có biệt danh Hieupc, vừa ra tù tại Mỹ sau hơn 7 năm bị bắt giam. Cậu kể lại con đường sa lầy trong thế giới ngầm của mình cho nhà báo chuyên viết về tội phạm mạng Brian Krebs, chủ trang KrebsOnSecurity, với mong muốn cảnh báo những người khác đừng đi theo vết xe đổ của mình.

Trong vài năm, bắt đầu từ 2010, Hiếu điều hành một trong những dịch vụ mang lại lợi nhuận cao nhất trên Internet liên quan đến việc bán “fullz” – hồ sơ chứa hàng trăm nghìn danh tính bị đánh cắp, như tên người dùng, ngày sinh, số an sinh xã hội, email và địa chỉ nhà riêng. Những thông tin này được tội phạm mạng mua lại để lừa đảo, làm giả thẻ ngân hàng của nạn nhân…

Khi Cơ quan Mật vụ Mỹ bắt giữ Hiếu vào năm 2013, hacker trẻ tuổi này đã kiếm được hơn 3 triệu USD nhờ bán dữ liệu cho nhiều đường dây tội phạm có tổ chức ở Mỹ.

Tháng 2/2013, đặc vụ Matt O’Neill đã lên kế hoạch dụ Hiếu ra khỏi Việt Nam và bay đến Guam, nơi cậu bị bắt và đưa về Mỹ. O’Neill cho biết ông mở cuộc điều tra sau khi đọc bài viết “Danh tính của bạn đáng giá bao nhiêu?” đăng năm 2011 trên trang KrebsOnSecurity, trong đó có nhắc đến website của Hiếu. Hieupc không nổi tiếng, nhưng thông tin mà cậu bán ra đã tiếp tay cho hàng loạt tội phạm mạng khác thực hiện các vụ gian lận tín dụng, đánh cắp tài khoản với giá trị ước tính khoảng một tỷ USD.

“Tôi không rõ có tên tội phạm mạng nào gây ra thiệt hại về tài chính với người Mỹ nhiều hơn Ngô”, O’Neill nói. “Cậu ta bán thông tin cá nhân của hơn 200 triệu người Mỹ và cho phép bất cứ ai cũng có thể mua với vài đồng bạc”.

Sự khởi đầu

Gia đình Hiếu có một cửa hàng thiết bị điện tử. Năm 12 tuổi, cậu được bố mẹ mua cho một chiếc máy tính. Khi 19 tuổi, cậu theo học tại New Zealand và lúc này đã là admin của một số diễn đàn hacker trên dark web.

Trong quá trình học, Hiếu phát hiện một lỗ hổng trong mạng máy tính của trường, làm lộ thông tin thẻ thanh toán. “Tôi liên hệ với kỹ thuật viên của trường để khắc phục lỗi, nhưng không ai quan tâm, nên tôi hack luôn cả hệ thống. Sau đó, tôi sử dụng lỗ hổng này để hack tiếp những website khác và lấy cắp được rất nhiều thông tin thẻ tín dụng”, Hiếu kể.

Cậu quyết định sử dụng dữ liệu có được để mua vé hòa nhạc, vé dự sự kiện… rồi sau đó bán lại trên trang đấu giá TradeMe ở New Zealand. Trường cuối cùng cũng phát hiện hành vi của Hiếu và báo cảnh sát. Visa của cậu không được gia hạn khi học kỳ đầu tiên kết thúc.

Hiếu trở lại học ở Việt Nam, nhưng phần lớn thời gian vẫn lang thang trên các diễn đàn tội phạm.

“Từ việc coi hack là trò vui, tôi chuyển sang hack vì lợi nhuận khi thấy mình có thể dễ dàng kiếm tiền từ việc đánh cắp dữ liệu khách hàng ra sao. Tôi kết giao với một vài người bạn trong các diễn đàn của thế giới ngầm và lên kế hoạch về một chiến dịch tội phạm mới”, Hiếu chia sẻ. “Các bạn tôi nói việc làm thẻ tín dụng và thông tin tài khoản ngân hàng rất nguy hiểm, nên tôi bắt đầu nghĩ về việc bán dữ liệu danh tính. Ban đầu tôi nghĩ, đó chỉ là thông tin thôi mà, có thể nó chẳng xấu vì không liên quan trực tiếp tới tài khoản ngân hàng. Nhưng tôi đã nhầm và số tiền tôi kiếm được quá nhanh khiến tôi mờ mắt”.

MicroBilt

Mục tiêu lớn đầu tiên của Hiếu là công ty báo cáo tín dụng MicroBilt ở New Jersey (Mỹ). “Tôi thâm nhập vào nền tảng của họ, đánh cắp cơ sở dữ liệu người dùng. Tôi hoạt động trong hệ thống đó suốt gần một năm mà không ai biết”, Hiếu kể.

Sau khi giành quyền truy cập MicroBilt, cậu lập website Superget, chuyên bán hồ sơ người dùng cá nhân. Khi khách hàng yêu cầu cần thông tin về một bang hay một nhóm người dùng cụ thể, cậu sẽ tìm kiếm dữ liệu một cách thủ công.

“Tôi cố thu thập nhiều hồ sơ một lúc, nhưng tốc độ Internet tại Việt Nam khi đó rất chậm, không thể tải xuống toàn bộ vì cơ sở dữ liệu quá lớn, nên ai cần gì thì thôi tìm thông tin đó trên hệ thống”, Hiếu cho biết.

Sau đó, cậu tìm ra cách sử dụng những máy chủ mạnh hơn ngay tại Mỹ để tự động thu thập lượng dữ liệu lớn từ hệ thống của MicroBilt và những hãng dữ liệu khác.

“Cơ sở dữ liệu của chúng tôi được cập nhật hàng ngày với thông tin về 99% người Mỹ, nhiều hơn bất cứ site nào khác trên Internet”, trang web của Hiếu quảng cáo. Mỗi thông tin, như số an sinh xã hội hay ngày sinh, được bán giá 3 USD.

Việc xâm nhập vào MicroBilt cuối cùng cũng bị phát hiện và công ty này đẩy Hiếu ra khỏi hệ thống. Tuy nhiên, cậu sớm quay trở lại nhờ một lỗ hổng khác.

Một trong những website của Hiếu, chuyên cung cấp dịch vụ đánh cắp danh tính. Ảnh: KrebsOnSecurity.
Một trong những website của Hiếu, chuyên cung cấp dịch vụ đánh cắp danh tính. Ảnh:KrebsOnSecurity.

Court Ventures và Experian

Trò chơi mèo vờn chuột với MicroBilt tiếp tục cho đến khi Hiếu tìm thấy nguồn dữ liệu người dùng hấp dẫn hơn: một công ty Mỹ có tên Court Ventures, chuyên lập hồ sơ công cộng từ tài liệu tòa án. Hiếu không quan tâm đến dữ liệu do Court Ventures thu thập, mà là thỏa thuận chia sẻ dữ liệu của nó với công ty môi giới dữ liệu là US Info Search – bên có khả năng tiếp cận nhiều hồ sơ người dùng nhạy cảm hơn.

Sử dụng tài liệu giả và một vài mánh khóe, Hiếu thuyết phục được Court Ventures tin rằng cậu là một nhà điều tra tư nhân ở Mỹ. “Ban đầu khi tôi đăng ký, họ yêu cầu một số tài liệu để xác thực, nên tôi sử dụng một vài kỹ năng để vượt qua vòng kiểm tra an ninh”, Hiếu cho hay.

Tháng 3/2012, Court Ventures được Experian – một trong những tổ chức tín dụng khách hàng lớn của Mỹ – mua lại. “Cơ sở dữ liệu được Experian kiểm soát và tôi trả cho Experian hàng nghìn USD mỗi tháng”, Hiếu kể.

O’Neill cho biết ông không rõ Experian có xem xét các tài khoản sáp nhập từ Court Ventures không, nhưng không khó nhìn ra điều bất thường ở tài khoản của Hiếu. Cậu ta thường trả tiền cho các yêu cầu dữ liệu khách hàng bằng hình thức chuyển khoản từ nhiều tài khoản ngân hàng khác nhau. Tuy nhiên, chúng đều là tài khoản mới lập và đa số ở Trung Quốc, Malaysia và Singapore.

Theo O’Neill, website của Hiếu thực hiện hàng chục nghìn lệnh truy vấn mỗi tháng. Ví dụ, hóa đơn đầu tiên mà Court Ventures gửi tới Hiếu vào tháng 12/2010 là cho 60.000 lượt truy vấn. Khi Experian mua lại công ty hai năm sau đó, dịch vụ của Hiếu đã thu hút hơn 1.400 khách hàng thường xuyên với 160.000 lệnh truy vấn hàng tháng.

Quan trọng hơn, Hiếu kiếm bộn tiền bởi mỗi lệnh truy vấn, Court Ventures thu của cậu 0,14 USD, nhưng cậu lại thu của khách hàng với giá 1 USD.

O’Neill và Mật vụ Mỹ cũng bắt đầu chú ý tới hoạt động của Hiếu và phát hiện một số email Hiếu gửi cho đồng phạm, hướng dẫn cách thanh toán tiền cho Experian bằng cách chuyển khoản từ các ngân hàng châu Á.

TLO

Làm việc với Cơ quan Mật vụ, Experian nhanh chóng xóa thông tin và đóng các tài khoản của Hiếu. Chớp cơ hội, Mật vụ Mỹ tìm cách liên lạc với Hiếu qua một trung gian ở Anh – một tên tội phạm mạng có tiếng, đã bị kết án và đồng ý hợp tác với cơ quan điều tra. Người này nói với Hiếu rằng chính anh ta đã chặn các tài khoản của Hiếu ở Experian vì bị cậu cản trở hoạt động kinh doanh dữ liệu của anh ta.

“Cậu đang giẫm chân lên cỏ của tôi nên tôi phải khóa cậu lại. Nhưng nếu chịu trả phần trăm cho tôi, cậu sẽ vẫn còn quyền truy cập”, người này nói. Dưới sự chỉ đạo của Mật vụ Mỹ và các nhà chức trách ở Anh, tên tội phạm yêu cầu gặp mặt để thỏa thuận trực tiếp. Nhưng Hiếu không cắn câu.

Thay vào đó, cậu chuyển hướng sang một kho dữ liệu khác. Tương tự cách tiếp cận Court Ventures, Hiếu thiết lập được tài khoản ở TLO, công ty môi giới chuyên bán quyền truy cập vào các thông tin nhạy cảm của hầu hết người Mỹ cho các cơ quan thực thi về luật tại Mỹ và một số ít chuyên gia – những người có thể chứng minh họ có lý do hợp pháp để tiếp cận dữ liệu như thế. Chỉ trong thời gian ngắn, Hiếu dùng dữ liệu của TLO để khôi phục lại dịch vụ bán danh tính.

Mờ mắt vì tiền

Năm 2012, Hiếu kiếm được hơn 3 triệu USD nhờ kinh doanh dữ liệu cũng như thoả thuận với ba cửa hàng tiếng Nga của tội phạm mạng. Cậu nói với cha mẹ rằng cậu kiếm tiền nhờ phát triển website cho các công ty, thậm chí sử dụng một phần tiền để trả nợ cho gia đình. Tuy nhiên, phần lớn được chi cho những chuyến du lịch, mua xe và nhiều thứ phù phiếm khác.

Khi TLO khóa tài khoản của Hiếu, Mật vụ Mỹ lại khai thác cơ hội cũ. Tên tội phạm ở Anh tiếp tục nói với Hiếu rằng anh ta đã đẩy cậu ra khỏi hệ thống của TLO và sẽ làm vậy cho tới khi cậu chịu gặp để thiết lập mối quan hệ hợp tác. Sau vài tháng trao đổi, cuối cùng Hiếu đồng ý hẹn người này ở Guam vì không nghĩ đây là cái bẫy mà các nhà điều tra Mỹ giăng ra.

“Tôi quá tuyệt vọng, muốn có một cơ sở dữ liệu ổn định, nên bị lòng tham che mờ mắt và hành động thiếu suy nghĩ. Nhiều người khuyên tôi đừng đi nhưng tôi nói với họ rằng tôi phải thử xem chuyện gì đang xảy ra”, Hiếu kể.

Ngay khi vừa bước chân ra khỏi máy bay ở Guam, Hiếu bị các đặc vụ Mỹ tiếp cận và bắt giữ. Một tháng sau, cậu mới được phép gọi điện về cho gia đình để giải thích về hoàn cảnh của mình. Cậu bị giam hai tháng ở Guam, sau đó bị đưa về New Jersey, nơi cậu thừa nhận đã thâm nhập vào hệ thống của MicroBilt và các hệ thống khác.

Mật vụ Mỹ gặp khó khăn trong việc xác định chính xác mức độ thiệt hại tài chính, nhưng ước tính dịch vụ của Hiếu giúp tội phạm mạng khai thác danh tính của người Mỹ để lừa đảo được số tiền khoảng 1,1 tỷ USD tại các ngân hàng và chuỗi cửa hàng bán lẻ ở Mỹ.

O’Neill cho biết, ông đã trao đổi với một số khách hàng của Hiếu. Những người này thừa nhận mua dữ liệu danh tính hiệu quả hơn nhiều so với mua thông tin thẻ thanh toán bị đánh cắp. Dữ liệu thẻ chỉ có thể dùng 1-2 lần trước khi bị vô hiệu hóa, trong khi dữ liệu danh tính có thể dùng đi dùng lại nhiều năm.

“Khi tôi điều hành dịch vụ, tôi không thực sự quan tâm đến hậu quả vì không biết khách hàng của mình là ai, cũng như không biết họ làm gì với những dữ liệu đó”, Hiếu nói. “Nhưng trong quá trình xét xử, toà án liên bang đã nhận khoảng 13.000 thư khiếu nại từ các nạn nhân, kể họ mất nhà, mất việc và không còn khả năng mua nhà hay duy trì nguồn tài chính chỉ vì tôi. Điều đó khiến thôi nhận ra mình là kẻ tồi tệ”.

Khi Hiếu ngồi tù ở Texas, một nhân viên ở đây đã kể cho cậu nghe chuyện về một người bạn của bà ấy. Người đó bị đánh cắp danh tính và sau đó mất mọi thứ. “Tôi không rõ người đó có phải một trong những nạn nhân của tôi hay không, nhưng câu chuyện khiến tôi thấy ân hận”, Hiếu thừa nhận.

Hieupc hy vọng một ngày nào đó có thể làm việc liên quan tới an ninh mạng, nhưng hiện chưa sẵn sàng và muốn dành thời gian cho gia đình. Về lâu dài, cậu mong có thể giúp những người trẻ tránh xa con đường tội phạm mạng.

Châu An (theo KrebsOnSecurity)
VNExpress