BOX mc@G – Dcl911
CVA-5663 Kỷ Yếu – https://tinyurl.com/CVA5663KyYeu
CVA5663 @ JUSTPASTE – tuoihacVT@G – My999 ✔ …
CVS, mc@Y – Mymisa999
DQA Thai NEWS_today ✔ @ JUST
DROP mc@Y – Mos***&2
FB mc@Y Dcl***911 – 682-256-6920, tuoihacvt@g tu***vt911,
FB laongoandongVN – Lndg….321@Gmail.com Mosk***911
Feedreader https://feedreader.com mc@Y – Hsb02
FIREFOX – mc@Y – My***02
FREE Internet Phone Call ✔
Kiếm $$$ trên YOUTUBE ✔
Lao’s OneDrive – Vietaphan73@outlook.com, Vietaphan911
Lịch Âm Duong ✔ lichvannien365
mc@li – May******911 – Chau.ds17 – Hsb02
mc@Y – Mosk******02
mc@G – Mosk******02
McDonald – May2014@G
Mosky’s FunPages ✔✔✔✔✔✔
MOSKYTINY – Tinyurl.Com/MoskyTiny – https://justpaste.it/7fh6p
My Phrases @ Just ✔
My Phrase Here ✔ JUST
My REG @ Google ✔
My REG.Docx @ ONE ❤
NOTE @ Just https://justpaste.it/1sj2v
ONE mc@Live – tuongmi02 ❤❤❤❤❤
→→ chau.ds17@Y – Mosk***02
PAY*** MC@Y – My***999 – 682***69**
Readings (1) ✔
Readings by MAY 💖💖💖💖💖
READ & WATCH now @ JUST
SPECTRUM MOBILE cu****6875 Conmeo****75
Spectrum On-the-GO ✔✔✔
SAMSUNG PHONE Acct cvakyyeu@gmail.com, DCL***911
→→→ https://findmymobile.samsung.com/
TH Readings ✔
Turn off antivirus protection ✔
UBER – 469-346-8493 – Moskyfun02
ULTRA Mobile 682-256-6920 Mosk****&2 CLICK
Wal-Mart ❤❤❤❤❤ IMGBOX
Wal-Mart Floor 🎂🎂🎂🎂🎂 Here
What Is Wi-Fi 6E ✔
WordPress
mc@Y-My999,
cvakyyeu@G, Kycva5663-911
https://imgur.com/upload
Category: Uncategorized
Vài Dòng Về Bài Hát Lệ Đá
From: Le Loc “Hà Huyền Chi nói về chuyện đặt lời cho một nhạc phẩm của Trần Trịnh: đó là bản Lệ Đá”
Forwarded by Ken Nguyen <C……..@gmail.com>
Lệ Đá trước hết không phải là một bài thơ phổ nhạc. Phải nói là tôi đã đặt lời cho bản nhạc (vốn không tên) của Trần Trịnh mới đúng. Do một cơ duyên đặc biệt Trung sĩ Nguyễn Văn Đông chơi Clarinet giới thiệu Trần Trịnh với tôi:
- Nhạc Trần Trịnh khá lắm nhưng rất ít người biết đến. Xin anh giúp thằng bạn em một lần đặt lời ca giùm cho nó.
Tôi rất cảm mến Đông nhưng liền lắc đầu:
- Em biết là anh vốn mù nhạc mà!
Đông tha thiết:
- Em biết chứ nhưng em thành thực nghĩ rằng chỉ có anh mới giúp được nó.
Trần Trịnh cười hiền:
- Xin anh giúp cho! Tôi nghĩ là sẽ có cách…
Tôi thẳng thắn đặt điều kiện:
- Nể thằng em coi như tôi thuận trên nguyên tắc. Tuy nhiên tôi cần nghe anh đàn bản nhạc này vài lần để có khái niề.m về nhạc tính. Và tôi cũng cần ý kiến thẩm định về nhạc thuật của bài này với những Pianist như Dzương Ngọc Hoán (chồng Pianist ca sĩ Quỳnh Giao)
Chúng tôi kéo nhau lên đài phát thanh Quân Đội. Trần Trịnh ngồi vào Piano. Và điều ngạc nhiên là tôi ưa ngay cái âm hưởng buồn ngất ngây dịu nhẹ rất Pianissimo ấy. Melody thật tha thiết ngọt ngào bắt nhĩ. Khi ấy Đông đã kéo Dzương Ngọc Hoán qua và Hoán khen bản nhạc này không tiếc lời khiến tôi có ngay quyết định giúp Trần Trịnh. Sau phần thảo luận chúng tôi tự chế ra một quy ước riêng. Trần Trịnh ghi dưới các nốt nhạc chữ “o” cho những từ không dấu (bình thanh) / Dấu huyền cho các từ mang dấu huyền hỏi Nặng./ Sắc cho các từ mang dấu sắc ngã.
Tiếc là khi ấy loại máy cassette còn chưa được phổ biến. Tôi nghe Trịnh đàn thêm vài lần nữa và cố gắng nhập tâm cái âm hưởng của bản nhạc. Và tôi bắt đầu chơi ô chữ.
Hôm sau tôi đem đến Trần Trịnh lời (ca thứ nhất của Lệ Đá). Kết quả ngoài sức tượng tượng tôi là không biết bằng cảm hứng nào đó tôi đã hoà được cái rung cảm đích thực của thơ tôi cho nhạc Trịnh. Trần Trịnh mừng rỡ tới sững hồn. Anh và Hoán cùng hân hoan hát Lệ Đá khiến tôi cũng choáng ngợp niềm vui:
“Hỏi đá xanh rêu bao nhiều tuổi đời
Hỏi gió phiêu du qua bao đỉnh trời”
Lập tức tôi viết lời 2. Buổi trưa nắng gắt dưới mái tôn thấp lè tè của quán cơm lính trong trại. Trên chiếc bàn bọc nhôm nóng bỏng cáu bẩn tôi thả hồn bay với Lệ Đá. Tôi viết thật dễ dàng và khóc cũng dễ dàng với:
“Người đi đi mãi không về
Thời gian xóa vội câu thề
Bóng anh nhạt nhoà bóng núi
Em với tình yêu trăng soi
Tượng đá kiên trinh ru con đợi chồng
Nhạc lá thu mưa hay chân ngựa hồng…”
Tôi cứ vừa viết vừa khóc thế đó như khi ngồi chép lại những dòng này. Tôi bỏ dở bữa ăn đem lời 2 lên đài Quân Đội. Gặp Nhật Trường trước phòng vi âm. Tôi đưa Lệ Đá ra khoe. Nhật Trường hát ngay với nỗi hân hoan bốc lửa. Hắn túm ngay lấy Trần Trịnh đòi soạn cấp kỳ hoà âm cho ban nhạc và 2 bè khác cho Mai Hương & Như Thuỷ. Khoảng nửa giờ sau Lệ Đá được thâu cấp kỳ. Nhật Trường, Mai Hương, Như Thuỷ, mỗi nguời trên tay một bản Lệ Đá “mì ăn liền” say mê hoà ca với nỗi xúc động đồng thiếp. Take onẹ Good take! Hát và thâu hoàn chỉnh ngay lần thứ nhất.
Nhật Trường như bay ra khỏi phòng vi âm ôm lấy tôi và Trần Trịnh:
- Ông đặt lời thần sầu. Bản này sẽ là Top Hit.
Tôi nhún nhường:
- Top Hit được là nhờ nhạc Trần Trịnh bay bổng như diều đấy chứ.
Nhật Trường cướp lời:
/ Nhưng ông là gió lớn. Đại phong…
(Trích bài Lê Tạo phỏng vấn HHC điện báo VHNT)
Nhịp 4/4 Thiết tha thể điệu Slow Rock hợp âm La trưởng:
Lệ Đá 1 (sáng tác cuối thập niên 60)
Hỏi những đêm sâu…đèn vàng héo hắt
Ái ân…bây giờ là nước mắt
Cuối hồn một…thoáng nhớ mong manh
Thuở ấy tôi như…con chim lạc đàn
Xoải cánh cô đơn…bay trong chiều vàng
Và ước mơ sao…trời đừng bão tố
Để yêu thương…càng nhiều gắn bó
Tháng ngày là…men say nguồn thơ
Điệp khúc
Tình yêu…đã vỗ…cánh rồi
Là hoa..rót mật…cho đời
Chắt chiu…kỷ niệm…dĩ vãng
Em nhớ gì…không em ơi
Mầu áo thiên thanh…thơ ngây ngày nào
Chìm khuất trong mưa…mưa bay rạt rào
Đọc lá thư xưa…một trời luyến tiếc
Nhớ môi em…và mầu mắt biếc
Suối hẹn hò…trăng xanh đầu non
Lệ Đá 2
Là nét đan thanh…nêu cao tình người
Tượng đá kiên trinh…ru con đời
Là ánh chiêu dương… đẩy lùi bóng tối
Tháng năm xa…trùng trùng sóng gối
Ngóng nhìn từ…bát ngát chân mây
- Bài hát ca dao…theo tôi vào đời
Và giữ cho tim…tôi xanh nụ cười
Nào biết trong em…còn nhiều trống vắng
Trái yêu đương…chỉ là trái đắng
Gã tật nguyền…buông trôi niềm tin
Điệp khúc
Tình yêu…đã vỗ…cánh rồi
Là hoa…rót mật…cho đời
Chắt chiu…kỷ niệm…dĩ vãng
Em nhớ gì…không em ơi
3 . Tươ.ng đá kiên trinh…ôm con đợi chồng
Nhạc lá thu mưa…hay chân ngựa hồng
Lệ đá tuôn rơi…dòng dòng nối tiếp
Ngóng chinh phu…đời đời kiếp kiếp
Suối vọng tìm…trăng xanh đầu non
Cái ma kiếp của một bài ca được yêu chuộng thường yểu tử và xuống cấp. Nhưng Lệ Đá thì không. Nó may mắn thoát khỏi định số ước lệ ấý. Vào những năm 67-68 Lệ Đá được cất tiếng thường xuyên hầu như ở khắp mọi sinh hoạt văn nghệ/. (Thời kỳ độc chiếm một cõi của nhạc Trịnh Công Sơn.)
Lệ Đá góp mặt hàng đêm ở các phòng trà tiệm nhảy. Lệ Đá vào khuê phòng ra máy nước. Rồi quán cà phê cũng Lệ Đá, phim ảnh cũng Lệ Đá (với tiếng hát Khánh Ly do Thanh Nga (?), Đoàn Châu Mậu diễn xuất, Bùi Sơn Ruân đạo diễn).
May sao Lệ Đá vẫn chưa trở thành nhạc sến, nhạc đứng đường. May sao tôi vẫn được yên thân bởi vẫn giữ kín cơ duyên nhảy dù vào nghề viết lời nhạc. Để mọi người đều hiểu lầm rằng Trần Trịnh phổ thơ tôi!
HÀ HUYỀN CHI
Special for my friend
Wal-Mart Floor

FREE Internet Phone calls
Hiện nay rất nhiều dịch vụ gọi phone miễn phí, mỗi loại có một đặc tính riêng biệt, như sau:
Viber Với Viber bạn nói chuyện với mọi nơi trên thế giới, nhưng chỉ với những người dùng Viber.
Muốn sử dụng:
– với desktop, vào trang dưới, dùng cho máy Windows hay Mac
https://www.viber.com/en/download/
– với smartphone (hay tablet)
– máy android : vào Google Play
– máy Apple : vào App Store
để download apk Viber
TextNow: Riêng TextNow, bạn có thể gọi bất cứ máy nào, người đó có dùng Textnow hay không, gọi được cả vào home phone (những dịch vụ khác không gọi được), nhưng chỉ dùng cho Bắc Mỹ (Mỹ và Canada)
với smartphone (hay tablet)
– máy android : vào Google Play
– máy Apple : vào App Store
để download apk TextNow
Facetime:
Đây là dịch vụ của máy Apple: tablet hay smartphone. Rất tốt, gọi đâu cũng tới, nhưng chỉ gọi được cho máy apple.
FacebookMessenger:
Với những ai dùng Facebook sẽ sử dụng được Messenger, nói chuyện được với ai cũng sử dụng dịch vụ này.
Sau một thời gian sử dụng Facebook, tôi thấy rất tiện dụng. Khi đăng ký bạn cho biết học ở đâu, làm việc ở đâu…. nó sẽ gom lại cho bạn, bạn sẽ nối liên lạc được với những người quen đã mất liên lạc từ lâu. Các bạn trong nhóm CVA nên dùng Facebook, sẽ liên lạc với nhau dễ dàng.
Các bạn thắc mắc gì, cứ hỏi, tôi có ít nhiều kinh nghiệm về computer nên có thể góp ý với các bạn.
Turn off antivirus protection in Windows Security
- Select Start >
Settings >
Update & Security >
Windows Security >
Virus & threat protection >
Manage settings (or Virus & threat protection settings in previous versions of Windows 10). - Switch Real-time protection to Off. Note that scheduled scans will continue to run.
My Phrases Here
FULL Shutdown → shutdown.exe /f /t 0
CMD.Exe → “C:\Windows\System32\cmd.exe”
Sfc /scannow
UEFI, Is Windows 10 UEFI or legacy? ✔ → Run BCDEDIT AsAdmin
aa
bb
cc
dd
ee
ff

Hùng Cường
Khôi phục những di sản điện ảnh Sài Gòn trước 1975
- Lê Hồng Lâm
- Viết cho BBC Tiếng Việt từ Sài Gòn

Sau 1975, nếu văn chương và âm nhạc của miền Nam vẫn được lưu trữ chủ yếu thông qua các tác giả rồi dần dần được phổ biến trở lại qua các nhà xuất bản, các nhà xuất bản, trung tâm âm nhạc trong và ngoài nước, thì điện ảnh – vốn là một bộ môn nghệ thuật tổng hợp tốn kém và chủ yếu được quay bằng phim âm bản (negative) 35mm nên khó lưu trữ hơn.
Phim Ròm vs. Xích lô và những cái ‘án treo’
‘Bố già’ và 50 năm của một hiện tượng văn hóa
Nền điện ảnh miền Nam trong gần 20 năm tồn tại và phát triển đã sản xuất khoảng 300 bộ phim, nhưng sau năm 1975, hầu hết các bộ phim đều hư hỏng hoặc biến mất vĩnh viễn. Một số hãng phim còn lưu trữ được một số phim âm bản qua nguồn tư liệu của gia đình bắt đầu khôi phục trở lại những di sản của điện ảnh miền Nam thông qua các bản phim DVD nhưng chất lượng hình ảnh và âm thanh đều hư hỏng khá nhiều.
Tại Đại hội Điện ảnh Việt Nam Quốc Tế (Viet Film Fest) lần thứ nhất tổ chức vào năm 2003 ở California (Mỹ), bộ phim Người tình không chân dung được mang trình chiếu lại sau đúng 30 năm bộ phim ra mắt lần đầu tiên (1973). Ghi nhận lại buổi chiếu đặc biệt này và trao giải Lifetime Achiviement Award (Thành tựu trọn đời) cho nữ tài tử Kiều Chinh, ký giả Phạm Xuân Đài viết trên tờ Tập san Thế kỷ 21:
“Người tình không chân dung có thể nói là một phim bề thế nhất về đề tài chiến tranh của miền Nam, do hãng phim Giao Chỉ sản xuất. Tuy là sản phẩm của hãng tư do Kiều Chinh thành lập và Hoàng Vĩnh Lộc đạo diễn, phim vẫn được sự hỗ trợ của chính quyền và quân đội Việt Nam Cộng Hòa trong việc thực hiện. Ngoài Kiều Chinh là nhân vật nữ duy nhất, các diễn viên còn lại khá đông đảo, hầu hết là quân nhân đang tại ngũ: Vũ Xuân Thông, Nguyễn Mộng Hùng, Hà Huyền Chi, Dương Hùng Cường, Minh Trường Sơn, Trần Quang, Tâm Phan… Điều đặc biệt là sau khi quay xong, phim này đã bị cấm chiếu trong hai năm sau cùng phải do một cuộc bỏ phiếu cả chính Hội đồng Nội các (20/21 phiếu thuận) phim mới được trình chiếu cho công chúng vào năm 1973. Lý do cũng chỉ vì những hình ảnh hiện thực của chiến tranh (những ‘mộ bia như nấm’ trong nghĩa trang, cảnh quân nhân bị thương, bị chết…) mà Hội đồng Duyệt phim các cấp đều chùn tay không dám thông qua, vì lý do “dễ làm nản lòng chiến sĩ’. Tuy nhiên, tại Đại hội Điện ảnh Á châu 1973, phim đã được hai giải thưởng cao quý: Giải phim chiến tranh xuất sắc nhất và giải Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất dành cho Kiều Chinh.
Đúng 30 năm sau ngày Người tình không chân dung ra mắt ở Sài Gòn, nay xem lại tại đất Mỹ, đa số khán giả bàng hoàng. Thứ nhất, phim rất khá, dù đã qua đãi lọc của thời gian và của lòng người với biết bao ảnh hưởng mới mẻ của điện ảnh hiện đại. Thứ hai, cảm phục ý thức của nhóm thực hiện, mà ngày nay, khi cuộc chiến xong đã lâu và mọi sự đã lắng xuống, người ta mới càng thấy rõ ý thức cuộc chiến là ‘của chúng ta’ để bảo vệ những lý tưởng của chúng ta, đồng thời không che giấu cái cảm thức nhức nhối trước một quê hương tan hoang do chiến tranh mang lại.
Một mình diễn xuất của Kiều Chinh đã mang hết gánh nặng chuyển tải thông điệp ấy. Là một phụ nữ có người yêu tử trận, đang làm trong chương trình ‘tâm tình với chiến sĩ’ trên đài phát thanh Quân đội, Mỹ Lan (Kiều Chinh) một hôm quyết định xin, ra mặt trận để đi tìm một người mà cô chưa từng quen biết, một thính giả chương trình của cô mà cô chọn một cách bất chợt trong số hàng trăm lá thư gửi về đài hàng ngày.(…)
Một mình Kiều Chinh trong Người tình không chân dung ở tuổi 30, với một diễn xuất trầm lắng diễn tả một nội tâm mênh mông, nặng trĩu những đổ vỡ mất mát do cuộc chiến mang lại, đủ để đại diện cho lương tâm của người Việt trong cuộc chiến ấy. Cuộc chiến ấy đã qua, may mắn chúng ta vẫn còn ‘của tin còn một chút này’.

Đạo diễn Tony Bùi, đại diện cho thế hệ người làm phim ảnh trẻ (nói cách khác thuộc thế hệ di dân thứ hai) đã được vinh dự là người trao giải Lifetime Achievement Award cho tài tử Kiều Chinh. Cử chỉ ấy như một kết nối đầy thân ái giữa hai thế hệ, và là một biểu tượng ý nghĩa cho bước đường sắp tới của nền điện ảnh Việt Nam tại hải ngoại.”
Cùng với Người tình không chân dung, nhiều bộ phim khác như Chiếc bóng bên đường, Giỡn mặt tử thần, Chân trời tím, Nàng, Như hạt mưa sa, Như giọt sương khuya, Nắng chiều, Bão tình, Sóng tình… đều được tái phát hành dưới dạng đĩa DVD và được một vài nhà sưu tập cá nhân phổ biến thông qua kênh youtube. Tất nhiên, như đã nói, chất lượng của các bản phim này đều không được đảm bảo, đặc biệt là hình ảnh và âm thanh đều rất kém.
Tháng 9, năm 2013, một nhóm làm phim thuộc miền Nam cũ bao gồm đạo diễn Đỗ Tiến Đức, kiến trúc sư Trần Quang Đôn và ký giả Trùng Dương đã hội ngộ tại Westminter (California, Mỹ) nhân cuốn sách truyện phim Yêu được tìm thấy và dự định tái bản tại Mỹ. Yêu là bộ phim của hãng phim Nghệ thuật của một nhóm trí thức mong muốn thể nghiệm một hình thức kể chuyện mới trước 1975 nhưng bộ phim không thành công về mặt thương mại khiến hãng phim này nhanh chóng sụp đổ. Bản phim Yêu hoàn toàn thất lạc, nhưng kịch bản phân cảnh của bộ phim được in thành sách xuất bản trước 1975 thì được tìm thấy.
Trong bài viết “Cuộc đời trôi nổi của một cuốn sách”, ký giả Trùng Dương – một trong những nhà sản xuất của bộ phim, viết rằng:
“Cuốn sách mang tựa đề Yêu – phỏng theo tiểu thuyết Yêu của Chu Tử – nhóm Phim Nghệ Thuật thực hiện, truyện phim và phân cảnh do Đỗ Tiến Đức viết. Cuốn sách nay do nhóm Phim Nghệ Thuật xuất bản năm 1972 tại Sài Gòn.”
Trong chuyến công tác đến Mỹ để thực hiện dự án khảo cứu về điện ảnh Sài Gòn trước 75, tôi được ký giả Trùng Dương cung cấp một số thông tin về bộ phim và cuốn truyện phim được tìm thấy sau nhiều năm thất lạc. Bà cho biết đây là cuốn truyện phim và bản phân cảnh duy nhất được in ra và phát hành ở Sài Gòn trước 75. Nhờ nhà văn Nhật Tiến, đúng 41 năm sau, cuốn sách được trao tận tay đạo diễn Đỗ Tiến Đức và họ dự định in lại tập sách này với một số lượng hạn chế cho các thân hữu và thư viện.
“Thú thật là tuy tác phẩm này in từ năm 1972 ở Sài Gòn, nhưng nay thì tôi mới có dịp đọc tới”, nhà văn Nhật Tiến kể. “Nó đã mang cho tôi nhiều ngạc nhiên, không phải vì nội dung hấp dẫn của nó dựa theo tác phẩm Yêu của Chu Tử mà chính vì cái kỹ thuật viết phân cảnh rất công phu, rất tỉ mỉ, rõ ra là của một nhà đạo diễn chuyên nghiệp nắm vững nội dung và biết tính toán những thước phim sử dung trong mỗi cảnh đến từng giây đồng hồ. Nó đảm bảo cho cuốn phim phải được thực hiện chặt chẽ không dông dài và đồng thời tiết kiệm được những thước phim quý báu do xứ mình còn nghèo phương tiện”
Ký giả Trùng Dương cho biết thêm, kịch bản phân cảnh của Yêu sau đó được in lại tại Mỹ để lưu trữ lại một di sản của điện ảnh miền Nam và nhóm làm phim Nghệ thuật.
Tuy nhiên, các dự án khôi phục nói trên đều khá đơn lẻ và thông qua một vài cá nhân hay nhóm làm phim trước 1975 tại Sài Gòn dưới chế độ Việt Nam Cộng Hòa mong muốn lưu giữ những di sản cũ.
Dự án khôi phục điện ảnh miền Nam công phu và bài bản nhất đến nay là Project #SAVEOURFILMS của hãng phim Mỹ Vân. Đây là một trong vài hãng phim lớn nhất và sản xuất nhiều phim nhất tại Sài Gòn trước 1975.
Gần đây, nhờ một nguồn tài trợ của trường Đại học UCLA (Film and Television Archives), 10 bộ phim nhựa (35mm Positive prints) và bản phim gốc (35mm Color Negatives Films) của hãng phim Mỹ Vân đã được lưu trữ và bảo tồn trong tòa nhà mang kiến trúc Hy Lạp cổ do hội Packard Humanities Institute xây dựng (PHI STOA) để dành riêng cho việc cất giữ những bộ phim nhựa (cellulose base films) điện ảnh trên toàn thế giới.
10 bộ phim nhựa được phục chế và bảo tồn của hãng Mỹ Vân bao gồm:
1. Năm vua hề về làng (1974)
2. Triệu phú bất đắc dĩ (1973)
3. Người chồng bất đắc dĩ (1974)
4. Việt Nam trong ly loạn (1975)
5. Đứa con trong lửa đỏ (1975)
6. Sau giờ giới nghiêm (1972)
7. Chân trời tím (1971)
8. Từ Saigon đến Điện Biên Phủ (1970)
9. Quái nữ Việt quyền đạo (1974)
10. Sợ vợ mới anh hùng (1974)
Đến nay, Mỹ Vân đã hoàn thành bản phục chế bộ phim bề thế Chân trời tím với chất lượng 4K và phát hành dưới dạng đĩa Bluray và bản digital (kỹ thuật số) phát hành ở khu vực Bắc Mỹ.

Chân trời tím được quay tại miền Nam, Việt Nam vào năm 1970. Phim dựa trên tiểu thuyết cùng tên của nhà văn quân đội Văn Quang, được 3 giải thưởng văn học nghệ thuật do Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu trao tặng năm 1970; và giải Best Artitistic Expression tại LHP Châu Á năm 1971. Sau gần 47 năm, bản phim gốc đã được gia đình hãng phim Mỹ Vân tìm được như một nhân duyên. Bộ phim nay đã được phục hồi màu sắc và âm thanh với kỹ thuật digital của Hollywood rất tốn kém. Phim do đạo diễn Lê Hoàng Hoa thực hiện với sự diễn xuất của Hùng Cường, Kim Vui, Mộng Tuyền, Bảo Ân, Hà Huyền Chi, Ngọc Phu, Ngọc Đức, Bà Năm Sa Đéc, Khả Năng…
Trong cuộc trả lời phỏng vấn ký giả Tôn Thất Hùng ở Canada nhân bộ phim Chân trời tím được phục chế và tái phát hành, nhà văn Văn Quang chia sẻ:
“Tôi nhớ không lầm thì hãng phim Mỹ Vân ngày xưa ở Việt Nam cũng là một trong 7 nhà sản xuất phim Chân trời tím. Ngày nay hậu duệ của hãng Mỹ Vân đã được anh Phi Hà công phu làm mới lại để giới thiệu dưới danh hiệu Mỹ Vân Films 21. Phi Hà là cháu ngoại thừa kế của ông bà Mỹ Vân. Phim nhựa 35 ly xưa cũ trải qua trên 50 năm đã hư hỏng qua thời gian nhưng với kỹ thuật tân tiến của phim trường Hollywood đã được làm mới lại đến 90%.
Thật ra điện ảnh VN thời xưa còn khá nhiều những tác phẩm nổi tiếng rất hay, vậy mà phim Chân trời tím đã được chú ý đến đầu tiên. Tôi tự hỏi tôi đã làm gì trong thời gian đó? Câu trả lời này gần như không có đáp số. Có lẽ cần phải hỏi những vị đã có công phu tìm tòi khám phá ra giá trị của cuốn phim này”.
Cùng với Chân trời tím, hiện hãng Mỹ Vân đang tiến hành phục chế song song hai bộ phim Năm vua hề về làng (phim hài do nhiều đạo diễn và diễn viên ngôi sao đóng, chiếu Tết năm 1974) và Từ Sài Gòn đến Điện Biên Phủ, một bộ phim tình báo của đạo diễn Lê Mộng Hoàng quay năm 1969 tại Sài Gòn, Đài Loan, Hongkong. Nếu Năm vua hề về làng là một bộ phim hài với sự tham gia đông đảo của các diễn viên nổi tiếng thì Từ Sài Gòn đến Điện Biên Phủ là một tác phẩm tình báo, hình sự hấp dẫn với sự tham gia của Hoàng Vĩnh Lộc, Kiều Chinh, Thẩm Thúy Hằng… và các diễn viên Đài Loan, Hongkong. Bản phim này được Spectra Film and Video, N. Hollywood, khôi phục lại từ bản phim nhựa 35 ly positive, do hãng post-production Imagica (Far East Laboratory) Tokyo, Japan lưu trữ trước 30/4/1975 với chất lượng khá tốt.
Như vậy, dự án phục chế #saveourfilms của hãng Mỹ Vân có thể nói là dự án công phu và chuyên nghiệp nhất để phục hồi những di sản của điện ảnh miền Nam trước 1975 và tái phát hành đến công chúng của ngày hôm nay.
Dự án này cũng mở ra một triển vọng tìm kiếm và phục chế những bộ phim khác đang nằm ở đâu đó trong các bộ sưu tập cá nhân hay qua những Viện lưu trữ tại Việt Nam hoặc hải ngoại.
Kỷ Niệm ‘Tao Đàn’
Phan Lạc Phúc

Đầu năm 1956 tôi từ biệt nghề “chiến binh lội ruộng” về Phòng 5 bộ Tổng tham mưu làm sĩ quan thông tin báo chí. Lúc bấy giờ tôi chưa có vợ con gì, khoác cái ba lô lên lưng là có thể đi cùng trời cuối đất.
Về Sài Gòn chưa biết ở đâu, tôi sáp vô ở với bạn cũ Thanh Nam ở ngõ Nancy (đường Phan Văn Trị). Tôi và Thanh Nam chơi với nhau từ khi tôi từ ngoài khu về Hà Nội ăn dầm nằm dề trên căn gác phố hàng Bông nhà Nguyễn Thiệu Giang, tập tọng làm văn nghệ văn gừng dưới sự hướng dẫn của đàn anh Đinh Hùng. Trong nhóm chúng tôi ngày ấy ngoài Thanh Nam, Nguyễn Thiệu Giang còn có Nguyễn Minh Lang, Phan Nghị, Huy Quang Vũ Đức Vinh, những người Thanh Nam nhắc đến trong Bài hành tuổi 40 vài chục năm sau:
... Bạn cũ hãy nương theo rét lạnh
Về đây cùng nhập một cơn say
Chí lớn chia nhau đầy gác nhỏ
Bụi hồng chưa khiến tóc xanh phai
Dăm bảy lòng sông ôm biển cả
Coi đời dưới mắt nhẹ không ai
Cơn mê nhập cuộc sầu chưa bén
Thân thế chưa đau cát bụi này…

Hồ Điệp
Sau hiệp định Genève 1954, nhóm chúng tôi tan tác kẻ đi người ở. Theo anh Đinh Hùng vào Nam có Vũ Đức Vinh, Phan Nghị và tôi; Thanh Nam đã vào Saì Gòn trước, 1953. Ở lại có Nguyễn Minh Lang, Nguyễn Thiệu Giang. Bấy giờ (1956) tôi ở với Thanh Nam, gặp lại anh Đinh Hùng và có thêm những người bạn mới.
Ở cùng nhà ngõ Nancy lúc bấy giờ có nhà thơ Thái Thủy (tác giả Lá thư gửi mẹ), kịch sĩ, kiêm “ngâm” sĩ và vũ sư (múa Trấn thủ lưu đồn) Hoàng Thư, nhà báo Vũ Quang Ninh, quản đốc đài phát thanh Quân Đội. Một lũ “xê li bạt” ở với nhau, không có đàn bà, không có trẻ con, ăn uống tùy tiện, tối đến sải chiếu ra, chăng màn ngủ, mỗi anh một góc, không phiền ai. Nhà này trước đây còn có văn sĩ Tạ quang Khôi (xước danh Tạ ống khói) nhưng ít lâu nay ông “Ống khói” tạm biệt nơi này vô Đại học sư phạm rồi.
Nhà này phải để sàn rộng rãi là nó có lý do của nó. Ông Hoàng Thư thỉnh thoảng tập múa Trấn thủ lưu đồn nên phải có chỗ cho “vũ sư” tập dượt. Vũ sư mặc quần đùi, thân thể hom hem nhưng múa rất hăng, vừa múa vừa hát “Trấn thủ ấy mấy lưu đồn. Ngày thì canh điếm ấy tối dồn là việc quan, chém tre mà đẵn gỗ trên ngàn…”
Nhà một lũ độc thân nên anh em dễ dàng hội họp, gặp nhau “phùng trường tác hí”. Sải chiếu ra, ăn nhậu dài dài. Hay đến đây là đàn anh Đinh Hùng có khả năng đặc biệt vừa nằm vừa viết văn chương Tao Đàn mà chữ nghĩa vẫn rồng bay phượng múa. Có ông Vũ Khắc Khoan gõ muỗng vào ly mà “Hồ trường, hồ trường, ta biết rót về đâu”. Có ông Mai Thảo với ông Phạm Đình Chương rượu uống tì tì, càng uống mặt càng tái đi. Có ông Anh Ngọc say ngất ngư mà vẫn hát “Anh đến thăm em một chiều mưa”. Có ông Tạ Tỵ ngày Tết chạy sang, sải chiếu ra, rút bất.
Văn nghệ sĩ đến đây nhiều như thế nên người ta bảo ngõ này là ngõ “văn nghệ”, khu này cũng có khá đông anh em ta cư ngụ. Từ chợ Nancy quẹo vô ngõ Phan Văn Trị là nhà của nhà văn, nhà thơ kiêm “sáo sĩ” Tô Kiều Ngân. Đi thêm dăm chục bước chân là nhà Thanh Nam. Trước cửa nhà Thanh Nam là nhà Tạ Tỵ họa sĩ, văn, thi sĩ. Ngay cạnh nhà Thanh Nam là nhà ban Hợp ca Hạc Thành của anh em nhạc sĩ Nhật Bằng, Nhật Phượng, Thể Tần, Hồng Hảo. Xế bên kia một chút là nhà của ký gỉa lão thành Thượng Sĩ, nhà phê bình, điểm sách trên tờ Tin Mới của Hà Nội năm xưa, (nhà văn nữ Sài Gòn cô nương xuất hiện trên làng báo hải ngoại mấy năm gần đây là con gái anh Thượng Sĩ).
Năm ấy (1956) là thời kỳ cực thịnh của ban Tao Đàn phù hợp với giai đoạn khởi đầu của nền Đệ Nhất Cộng Hòa khi miền Nam Việt Nam vừa có một thể chế mới, một tương lai mới. Pháp đã rút hết về nước. Trên phương diện truyền thanh, các đài của Pháp như Pháp Á, Con Nhạn (Hirondelle) nhất loạt đóng cửa; đài quốc gia (lúc bấy giờ chưa có TV) cũng như các chương trình phát thanh có bổn phận phải “lớn lên” cho kịp với tình hình.
Ban Tao Đàn ngoài trách nhiệm đã được minh thị “tiếng nói của thơ, văn miền Tự Do” còn tiềm ẩn một nghĩa vụ “đem theo văn hóa của một triệu người miền Bắc vừa định cư ở miền Nam.” Thơ, văn Tao Đàn phần đông là văn hóa Bắc Hà, là những làn điệu của văn minh sông Hồng, sông Mã giao duyên cùng văn minh Hương Giang và Cửu Long Giang. Bao nhiêu năm đã trôi qua, bây giờ từ vĩ tuyến 17 trở vào trong, chúng ta có một lối ngâm thơ đã trở thành phổ biến: ngâm thơ Tao Đàn. Nó xuất hiện thường xuyên trong cải lương miền Nam hay bài chòi miền Trung. Nó là cái còn lại, là dấu ấn của văn nghệ sĩ đã đưa Tao Đàn vào đời sống văn hóa.
Người khai sinh và điều khiển chương trình Tao Đàn, như cả nước đều biết là thi sĩ Đinh Hùng. Năm 1956 tôi ở nhà Thanh Nam, nơi anh Đinh Hùng thường tới viết bài, các cộng sự thân thiết nhất của anh đều ở quanh đây nên có thể nói nơi đây là “đại bản doanh” của chương trình Tao Đàn.

Chương trình Tao Đàn có thể chia ra làm 3 bộ phận. Bộ phận quan trọng nhất là ban biên tập và diễn đọc gồm Đinh Hùng, Thanh Nam, Thái Thủy; vài năm sau có Huy Quang Vũ Đức Vinh từ Nha Trang vào cộng tác. Bộ phận thứ hai là ban ca ngâm gồm những tài tử nam, nữ trình diễn thường xuyên hay tùy hứng. Người “đa năng” nhất trong ban Tao Đàn là Tô Kiều Ngân. Anh vừa là tài tử diễn ngâm, vừa biên tập, vừa trong ban nhạc. Tiếng sáo Tô kiều Ngân réo rắt thường được coi là “indicatif” của Tao Đàn, hợp cùng tiếng đàn thập lục trầm bổng của Bửu Lộc, tiếng piano trầm ấm trước của Ngọc Bích, sau của Phạm đình Chương.
Về giọng ngâm nam ngoài họ Tô, còn có Hoàng Thư; một thời giọng ngâm Thanh Hùng cũng có góp tiếng trên đài. Tô Kiều Ngân tuy giọng không khoẻ nhưng anh là người ngâm “khéo” nhất, ngâm giọng Bắc, giọng Trung đều nhuyễn. Hoàng Thư có chất giọng say sưa, mạnh mẽ, được đời nhớ mãi trong Bài ca ngư phủ của Vũ Hoàng Chương. Thanh Hùng với giọng thổ pha kim, xuất sắc trong những tác phẩm bi hùng. Có những giọng ngâm không có mặt lâu năm trên đài nhưng vẫn được đời ghi nhớ như Quách Đàm trong những bài lục bát hay Thiếu Lang trong Hồ Trường của Nguyễn Bá Trác.
Về giọng ngâm nữ lúc khởi đầu phải nhắc tới cái ngọt ngào của Giáng Hương, nhưng các tay sành điệu đều không thể nào quên giọng ngâm đổ hột(*) đặc sắc của bà Đàm Mộng Hoàn, một danh tiếng vang lừng tại Khâm Thiên tiền chiến trong Tỳ Bà Hành.
Giọng ngâm nữ nhiều năm làm thổn thức trái tim thính giả là Hồ Điệp trong những bài thơ nức nở TTKH. Về sau, có một giọng nữ như sương như khói làm khởi sắc những vần ca dao dân tộc và những bài ca huyền sử. Đó là giọng ngâm Hoàng Oanh.
Sang đến thập niên ’60 (thế kỷ trước), sức truyền lan của Tao Đàn có sút giảm đi. Thi ca miền Nam Tự Do với một thẩm mỹ mới, một thẩm mỹ chênh vênh (esthétique de choc) đã ngự trị thi đàn.. Thơ có vần đang chuyển sang không vần của thơ Tự Do. Người ta ưa đọc thơ hơn là ngâm thơ. Nhưng đó lại là một vấn đề khác. Mỗi thời điểm có vấn đề riêng của nó.
Ngày xưa đàn anh Đinh Hùng có nói: “Mỗi một người bạn là một phần đời sống của mình”. Thoạt đầu, tôi nghĩ là đàn anh “bốc” đàn anh phán vậy thôi. Nhưng càng già càng thấy đàn anh nói đúng.

Bây giờ nói về thời gian sống ở ngõ Nancy còn lại những ai? Đinh Hùng, Thanh Nam, Thượng Sĩ, Hoàng Thư, Phạm Đình Chương, Vũ Khắc Khoan, Mai Thảo, Nhật Bằng, Tạ Tỵ, Phan Nghị… đều bỏ chúng ta mà đi rồi. Người gần nhất “lên đường” là Huy Quang Vũ Đức Vinh. Khi nghe tin Vũ Đức Vinh ngắc ngoải, hai ông còn lại ngày xưa hồi ở nhà Thanh Nam là Vũ Quang Ninh và Thái Thủy vội bay sang Seattle thăm bạn, tới nơi thấy bạn mình đã hôn mê nhưng khi nghe: “Vũ Quang Ninh, Thái Thủy sang thăm ông đây”, người hấp hối bỗng chảy hai hàng nước mắt. Vũ Đức Vinh người bạn thường gọi tôi “bạn cũ trên 50 năm” đã từ biệt chúng ta như thế.
Bây giờ còn có người mà kể lại (chuyện Tao Đàn); mai đây không biết còn kể lại với ai? Hồng Vân

