Câu chuyện “ông Putin săn hổ” ….. nhận giải tin tức giả

Nguoiduatin

Tại buổi lễ trao giải Bobards d’Or (Trò chơi khăm Vàng) ở Paris, do Quỹ Polemia tổ chức, một số câu chuyện tin tức giả mạo lố bịch nhất trong những năm qua đã được vinh danh với tượng vàng được mô phỏng theo giải Oscar. Tuy nhiên, tượng vàng này lại là Pinocchio – tôn vinh những tin tức dối trá.

Tiêu điểm - Câu chuyện 'ông Putin săn hổ' giúp kênh truyền hình Pháp 'vinh dự' nhận giải tin tức giả

Giải thưởng được trao cho 3 hạng mục: “Trò chơi khăm truyền thống” cho các câu chuyện nội bộ của Pháp, “Trò chơi khăm quốc tế” cho các câu chuyện về các vấn đề đối ngoại, “Trò chơi khăm Ao vàng” – cho cách mà các phương tiện truyền thông phản ánh với cuộc biểu tình gần đây ở quốc gia này.

Một trong những người biểu tình Áo vàng là Fiorina Lignier, người đã mất một mắt do lực đạn của cảnh sát, thậm chí còn được mời làm một trong những giám khảo.

Trong số 15 ứng cử viên ban đầu, cuối cùng các giám khảo đã chọn ra các hạng mục chiến thắng. Tin tức được vinh danh cho “Trò chơi khăm quốc tế” là một câu chuyện liên quan đến Nga. Trong trường hợp cụ thể này, Nga không bị buộc tội bịa đặt tin tức giả mạo, mà lại được minh oan là nạn nhân.

Tượng Pinocchio vàng dành cho bản tin do kênh truyền hình France 2 phát hành vào tháng 8/2018 về thói quen nghỉ mát xa hoa của các nhà lãnh đạo thế giới, trong đó kênh truyền hình này cho rằng ông Putin đã từng đi săn hổ.

Thậm chí bản tin còn cung cấp hình ảnh nhà lãnh đạo Nga ngồi cạnh con hổ bất động nằm dài trên đất như thể đang tự hào về chiến lợi phẩm.

Ngoại trừ việc hình ảnh là có thật, mọi thông tin còn lại đều sai hoàn toàn. Những hình ảnh này được lấy từ một báo cáo năm 2008 về một chương trình bảo tồn hổ quốc gia và Tổng thống Vladimir Putin đang làm điều ngược lại với việc giết chết một loài động vật đang có nguy cơ tuyệt chủng. Trên thực tế, nhà lãnh đạo Nga chỉ đang đặt vòng đeo cổ theo dõi GPS lên con vật trong nỗ lực bảo vệ loài vật quý hiếm.

Khi nhận được báo cáo về sai sót của mình, kênh truyền hình France 2 đã ngay lập tức rút bỏ bản tin ra khỏi trang web. Dẫu vậy, đại diện của France 2 vẫn chống chế cho rằng đây không phải là tin giả mà là “lỗi vô ý”.

Cách giải thích này ngay sau đó đã vấp phải sự chế giễu của nhiều cư dân mạng. Cựu ứng viên tổng thống Pháp Jean-Luc Melenchon gọi câu chuyện của France 2 là “chiến dịch tuyên truyền chống Nga thô thiển, do một nhóm giả mạo khuấy động”.

More reading

Từ Dinh Độc Lập 1969 Tới Ngôi Nhà Ngoại Ô London Sau 1975

Viet Bao

Nguyễn Tiến Hưng, tác giả cuốn “Tâm Tư Tổng Thống Thiệu,” nói chuyện với các bạn hải quân tại nhà hàng Paracel, Little Saigon về những điều chưa thể viết trong sách.

 

NTH_voi Hai Quan VNCH

Ngày 28/1/1969 – vừa lên ngôi, TT Richard Nixon đã nhóm họp ngay với Hội đồng An ninh Quốc gia nới rộng để bàn về Việt Nam. 

Tướng Andrew Goodpaster, Phó của Đại tướng Creighton Abrams trình lên tổng thống: “Quân đội Việt Nam Cộng hòa đã không ngừng cải thiện, và thời điểm mà ‘De-Americanization” – vai trò của quân đội Mỹ có thể được thu hep lại thì đã cận kề.” Bộ trưởng Quốc phòng Melvin Laird đồng ý với quan điểm này, nhưng không đồng ý với ngôn từ ‘De- Americanization.” “Điều chúng tôi cần là một thuật ngữ như “Vietnamization” (‘Việt Nam hóa’ chiến tranh) để nhấn mạnh vào vấn đề chính yếu là giúp cho Miền Nam có đủ khả năng để tự bảo vệ. TT Nixon đồng ý ngay và tuyên bố chương trình này tại cuộc họp đầu tiên giữa hai Tổng thống Nixon và Thiệu tại đảo Midway vào ngày 8/6/1969.

Chỉ 5 tháng sau, chương trình này được khởi sự với Hải Quân VNCH. Và từ đó, Hải Quân đã phát triển rất mạnh và mau chóng:

1969: Mỹ chuyển giao 80 tầu tuần giang. Ngay lập tức Hải Quân tiếp thu toàn bộ chiến dịch tuần tra, kiểm soát sông ngòi của lãnh thổ.

1971: tiếp nhận công tác tuần tra vùng Duyên Hải và trên biển;

1972: tiếp thu và quản lý toàn bộ 16 đài kiểm thính (radar) duyên hải để chấm dứt hoàn toàn hoạt động của Hải quân Mỹ.

1973: VNCH đã hoàn tất chương trình bành trướng Hải Quân lên đến quân số trên 40,000 sĩ quan và thủy thủ.

Theo như sự đánh giá của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu – chính vì sự giúp đỡ tối đa của Đô Đốc Emmo Zumwalt – một người đã rất gắn bó với VNCH – cho nên Hải Quân đã trở thành một lực lượng lớn mạnh đáng kể.

Khi chúng tôi viết cuốn ‘Tâm Tư Tổng Thống Thiệu’, nhà tôi đã khuyên tôi nên viết một chương về Hải Quân nhưng sách đã dài trên 700 trang, không thể thêm vào được. Cho nên trong bài này chúng tôi xin nhắc lại một số sự kiện lịch sử liên hệ:

– Chỉ trong vòng 5 năm, với 64,200 vật liệu và phụ tùng đã được lưu trữ tại trung ương và các cơ xưởng của Hải Quân để sửa chữa và bảo trì cho 1,429 tầu chiến gồm 13 loại lớn nhỏ – từ Khu Trục Hạm, Tuần Dương Hạm tới Dương Vận Hạm, Xà Lan chở dầu. Hệ thống tiếp liệu của Hải Quân VNCH được Bộ Quốc Phòng Mỹ đánh giá là lớn lao nhất và hiệu quả nhất Đông Nam Á.

Để có một ý niệm về hệ thống này phức tạp như thế nào, ta có thể so sánh nó với HOME DEPOT. Khi ta vào đây mua sắm vật liệu thì thấy như vào cái rừng, nhiều khi vợ chồng còn đi lạc nhau. Tuy nhiên HOME DEPOT cũng chỉ lưu trữ từ 30,000 tới 38,000 vật liệu so sánh với trên 64,000 của Hải Quân VNCH.

Hệ thống tiếp liệu của Không Quân và Lục Quân thì lớn hơn nhiều: 192,000 và 127,000 nhưng đa số được lưu trữ ở ngoại quốc. Khi máy bay khu trục cần sửa chữa tới ‘cấp 4’ (rigging operation) thì phải đưa sang Đài Loan. Trái lại, Hải Quân có đủ vật liệu và kỹ thuật để sửa chữa chiến hạm ngay trong nước.

-Hải Quân giữ một nhiệm vụ quan trọng trong việc bảo vệ an ninh đường thủy, đóng góp rất lớn cho nền kinh tế miền Nam, vì lúa gạo, đường, gia súc, tôm cá, các nhu yếu phẩm hầu hết được đưa về cảng và các kênh ở Sài Gòn và các tỉnh bằng đường sông rạch chằng chịt tại đồng bằng châu thổ Cửu Long, vì đường bộ thiếu an ninh lại bị tắc nghẽn ở Phà Mỹ Thuận. Phà này phải đi qua khúc sông Cửu Long dài tới nửa cây số.

hinh-22

Dinh Độc Lập: Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu tiếp sứ giả Hoa Kỳ. Phía bìa trái là Tổng trưởng Kế Hoạch Nguyễn Tiến Hưng.

Cầu Mỹ Thuận mà Mỹ không thuận!

Nơi đây chúng tôi xin kể lại một câu chuyện bên lề về Phà Mỹ Thuận: một hôm chúng tôi họp với Bộ Công Chánh để tìm hiểu tại sao chính phủ đã có dự án xây một cây cầu ở Mỹ Thuận từ mấy năm rồi mà chưa xây để khai thông hệ thống chuyển vận đường bộ? Các chuyên gia trả lời là vì nhiều lý do như tình hình an ninh khó khăn (dễ bị gài mìn trên sông), chưa đủ chuyên gia kỹ thuật…

Sau cùng một thanh niên rất trẻ đứng lên phát biểu: “Dạ thưa ông: cái cầu tên là Mỹ Thuận nhưng Mỹ chưa bao giờ thuận nên không xây được.” Câu nói của thanh niên này đã tóm gọn tình trạng phải lệ thuộc vào Hoa Kỳ không những về quân sự mà còn về kinh tế của Miền Nam trong thời gian chiến tranh: vì cuộc chiến kéo dài từ 1945 nên đã không cho phép sản xuất, phát triển.

– Sau Hiệp Định Paris, TT Thiệu đã chỉ thị cho chúng tôi qua Mỹ để yêu cầu Hoa Kỳ thay thế cho HQVN những chiến hạm đã quá cũ kỹ theo điều khoản “một đổi một” của Hiệp Định Paris. Ông đặc biệt nhấn mạnh tới chiến hạm thuộc loại chuyển vận như Dương Vận Hạm – LST (Landing Ship Tank), nhưng không thành công vì Hiệp Định này chỉ cho phép “một đổi một” về phẩm chất: không được thay cũ đổi mới.

TT Thiệu nói: sở dĩ cần ngay LST vì một phần là để giúp chuyển quân thay cho trực thăng vì mô hình Việt Nam hóa vẫn đặt nặng hai yếu tố “Mobility và Fire Power” – di động tính và hỏa lực.

‘Mobility’ thì luôn cần trực thăng mà bây giờ nhiều chiếc phải nằm ụ vì thiếu phụ tùng.

Cho nên cần có LST thật tốt để hay thế một phần. VNCH chỉ có 5 cái: HQ 500 tới HQ 505.

Vai trò của LST quan trọng như thế nào thì đã phản ảnh vào những ngày tháng cuối cùng:

Tháng 3/1975 Trung tướng Ngô Quang Trưởng rất lo ngại về cái chốt nguy hiểm ở đèo Hải Vân:

QL 1A đi từ Huế tới Đà Nẵng dài 95 cây số và phải qua đèo Hải Vân. Đèo này nằm trên dẫy núi dài tới 21 cây số. Rồi qua Cửa Tư Hiền rất khó khăn: nơi thông đầm Cầu Hai với Biển Đông.

Cho nên Tướng Trưởng chỉ trông nhờ vào cảng Tân Mỹ ở đầu nguồn Sông Hương. Chúng tôi biết được chuyện này vì trong một báo cáo cho TT Thiệu, qua tài liệu của tình báo Mỹ thì: ba sư đoàn VNCH ở Huế và lân cận có thể bị rơi vào cạm bẫy của quân đôi Bắc Việt vì – ngoài Phi Trường Phú Bài thì chỉ còn cái cảng nông cạn, sình lầy là cảng Tân Mỹ để rút lui: “Sáu Sư đoàn Bắc Việt ở phía Bắc và ba SĐ ở khu vực Quảng Trị-Thừa Thiên, tổng cộng là 9 SĐ sẽ có thể đánh bại 3 SĐ VNCH nội trong trong mấy ngày.”

hinh-2

Và ngôi nhà nhỏ ở ngoại ô Luân Đôn, nơi Ông Thiệu tiết lộ kế hoạch sau cùng.

Sau cùng thì cái gì đã xảy ra?

Trên đường rút từ Huế: Lữ đoàn Thủy Quân Lục Chiến 147 rút về cảng Tân Mỹ để được LST của Hải quân chuyển đi. Nhưng căn cứ này đã sớm bị tràn ngập thường dân tìm cách di tản, cho nên sau cùng LST chỉ có thể vào gần bờ vài trăm feet, bắt buộc TQLC phải bơi ra tàu, cuối cùng chỉ có khoảng 600 trong số 3000 TQLC được chuyển vận tới Đà Nẵng.

– Trở lại Hiệp Định Paris, một điểm quan trọng cần được ghi lại cho lịch sử: đó là về việc di chuyển quân: Hải Quân và chỉ có Hải Quân là không bị trói tay bởi Hiệp Định Paris. Hiệp Định này được gọi là “Hiệp Định Da Beo:” cho phép bộ đội Bắc Việt đóng lại Miền Nam ở rải rác khắp nơi như những đốm da beo trên bản đồ. Cho nên Không Quân bị ngăn chận không được bay qua và Bộ Binh không được vận chuyển qua những khu vực này.

Trái lại, trên mặt biển thì không có đốm da beo nào (cho tới trận Hoàng Sa) cho nên Hải Quân đã hoàn toàn làm chủ đại dương cho tới ngày cuối cùng.

-TT Thiệu đã có tầm nhìn xa về Biển Đông: sau khi mất Hoàng Sa ông đã nghi ngại Trung Cộng sẽ tiếp tục xâm chiếm lãnh thổ hải đảo và sẽ đưa tầu chiến vào Trường Sa, nên đã điều thêm chiến hạm HQVN ra phòng thủ Trường Sa với bất cứ giá nào.

Đây là vấn đề quân sự, nhưng lúc ấy vì một tình cờ chúng tôi mới biết chuyện này, đó là khi gặp Tướng John Murray (chỉ huy cơ quan DAO Bộ Quốc Phòng Mỹ ở Sài gòn) để cập nhật ngân sách viện trợ (là lãnh vực của chúng tôi) thì có cả vấn đề tiết giảm chi tiêu quân sự, gồm cả Hải Quân. Ông Murray nói tới khuyến nghị của ông đối với chi tiêu của Hải Quân và cho biết ông đã đề nghị Bộ Tổng Tham Mưu rút hết các chiến hạm khỏi Trường sa và đóng cửa một số cơ sở bảo trì của Hải Quân:

Căn cứ yểm trợ hành quân ở Cần thơ;

Hai căn cứ yểm trợ hành quân tại Vĩnh Long, và Long Phú;

Hai căn cứ sửa tầu ở Cửu Long và Cần Thơ; và

Hai căn cứ yểm trợ nhanh ở Chợ Mới và Thuận An.”

Tôi hỏi tại sao nên rút chiến hạm khỏi Trường Sa? Ông trả lời là vì hai lý do: thứ nhất, nguyên tiền xăng nhớt cho hai chiến hạm ở đây đã tốn tới nửa triệu đôla một năm; và thứ hai: thả neo ở Trường Sa là không cần thiết vì “Hải Quân của Bắc Việt không thể nào vào tới tận Trường Sa.”

Tôi báo cáo lại với TT Thiệu, ông nói: “Bắc Việt không thể nào vào tới Trường Sa nhưng sau Hoàng Sa, Trung Cộng sẽ ngừng để nghỉ ngơi, tái phối trí rồi sẽ tiến thẳng vào Trường Sa.”

Ông cho biết đã ra lệnh không những tiếp tục bảo vệ mà còn tăng cường nếu cần thiết. Theo sự suy nghĩ của chúng tôi, sở dĩ ông nhất quyết như vậy – dù đã sắp cạn tiền mua xăng – một phần cũng vì ông cho rằng phải bảo vệ kho tàng dầu lửa. Lúc ấy, tin tức về khai thác thành công dầu lửa ở Trường Sa đang rộ lên.

-Với sự bảo vệ an ninh của các chiến hạm HQVN, các giếng dầu hoạt động ngoài khơi Biển Đông đã có dấu hiệu có thể xuất cảng dầu thô, chỉ trong vài ba năm đã có thể lên tới 1 tỷ dollars mỗi năm, một triển vọng cho miền nam trù phú có thể tự lực, tự cường mà không còn phải nhờ vả vào viện trợ Hoa Kỳ nữa..

-Trong trận Mùa Hè Đỏ Lửa, TT Thiệu đã dự trù cho 1 sư đoàn Bộ Binh đổ bộ ra Vinh bằng các chiến hạm HQVN, làm nghi binh để cho bộ đội Bắc Việt phải rút về phòng thủ.

– Về trận Hoàng Sa 19/1/1974, TT Thiệu đã ra lệnh trực tiếp cho tư Lệnh Vùng I Duyên Hải Hồ Văn Kỳ Thoại mà không qua hệ thống quân giai để phản ứng nhanh chóng trong việc bảo vệ Hoàng Sa. Sau đó ông còn ra lệnh cho Không Quân dùng máy bay khu trục F5E để bay ra bắn chìm tầu của Trung Cộng. Nhưng hai phi vụ không thực hiện được vì Ngoại trưởng Henry Kissinger đã ngăn chận. Nhân chứng còn sống là Đại Tá Nguyễn Quốc Hưng, Phụ Tá Tham Mưu Phó Hành Quân, Bộ Tư Lệnh Không Quân (‘Khi Đồng Minh Nhảy Vào’ Chương 25).

– TT Thiệu tin tưởng Hải Quân sẽ đủ khả năng bảo vệ bờ biển Đà Nẵng, để Bộ Binh và Không Quân tử thủ thành phố này, nếu giữ được hai tuần lễ – như điều kiện Hoa Kỳ đã đặt ra trong một kế hoạch tối mật giúp bảo vệ Miền nam. Tuy nhiên thành phố Đà Nẵng đã thất thủ nhanh chóng vì lệch lạc hỗn loạn dẫn đến sụp đổ của chính thể VNCH. Và lịch sử cũng đã rõ là nếu VNCH có giữ được hai tuần thì Hoa Kỳ cũng đã thất hứa vì đã quyết định tháo chạy.

Ban doAAA

Hình chụp từ tấm bản đồ trong “Phòng Tình Hình” của TT Thiệu mà người viết còn giữ. Bản thu nhỏ cũ kỹ, đường nét mờ mịt. Vị trí từ Bến Lức, ranh giới dự tính cho một VNCH thu gọn về miền tây..

Vai trò Hải Quân trong kế hoạch sau cùng

Vai trò Hải Quân trong chiến lược cuối cùng: rút về Miền Tây để bảo vệ một VNCH thu gọn.

Sau này tại Luân Đôn, TT Thiệu tiết lộ về kế hoạch cuối cùng của ông là ‘cắt cầu Bến Lức, rút về Miền Tây.’ Ông nói rằng lúc ấy ông hy vọng nếu Mỹ đồng ý cho ta vay một số tiền (khoảng 1 tỷ đôla) để mua được tiếp liệu thì sẽ rút về Miền Tây để chỉ giữ một VNCH thu gọn, vì khả năng quân sự ở nơi đây còn nguyên vẹn và tình hình an ninh rất tốt. Ông giải thích là không thể nào giữ được cả bốn quân khu với một biên giới quá dài vì quân số rất ít: tuy lý thuyết là trên một triệu binh sĩ, nhưng trong thực tế, quân đội chủ lực chỉ có khoảng 130,000. Sau Đà Nẵng, số này chỉ còn vỏn vẹn 63,000. Tuy nhiên, nếu có phương tiện để gấp rút thi hành kế hoạch tái tổ chức thì vẫn có thể giữ được Miền Tây. Sau tuyến Tây Ninh – Nha Trang, tuyến cuối cùng mà ông Thiệu vẽ trên bản đồ là từ Mỏ Vẹt qua Bến Lức (xem bản đồ).

TT Thiệu cắt nghĩa là từ cầu Bến Lức, phòng tuyến mới của một VNCH thu gọn sẽ dễ bảo vệ hơn nhiều. Ranh giới chỉ còn phần giáp Cao Miên và mấy chục cây số từ Mỏ Vẹt ra tới biển.

Khúc còn lại, tức là phần lớn của biên giới thì chỉ là duyên hải. Theo sự ước tính của chúng tôi thì biên giới sẽ không phải là cả gần 700 dặm nữa mà được thu hẹp lại chỉ còn khoảng trên 130 dặm.. Phần lớn công tác biên phòng của một VNCH thu gọn sẽ được Hải Quân trấn giữ.

Cho nên, tổng kết cho lịch sử: cùng với Lục Quân (đã bảo vệ lãnh thổ cho tới tháng 1/1975 khi mất tỉnh đầu tiên trong suốt cuộc chiến mà không lấy lại được: đó là Phước Long; cùng với Không Quân (đã bảo vệ tất cả bầu trời cho thật an ninh cho tới khi bị giới hạn bởi HĐ Paris), Hải Quân VNCH có thể tự hào là đã làm tròn bổn phận đối với Tổ Quốc và Đại Dương.

Nguyễn Tiến Hưng

 

 

More reading

Dưới bóng mát của lá cờ “ba que”

Internet

Hoàng Ngọc Mai – Bài nầy tôi muốn nói cho những kẻ cứ mỗi lần vén hai cái mép mồm lên nói là phát ra tiếng “Ba Que”.

Theo tôi thấy, thì những kẻ hay dùng cái từ 3/// đó thường còn trẻ, đa số chưa đến 60, có nghĩa là vào năm 1975 chỉ còn là con nít. Còn những người lớn tuổi hơn, thậm chí cả đảng viên, họ cũng nói một cách khác. Ngay cả từ Ngụy Quân và Ngụy Quyền cũng đã được chính thức gỡ xuống.

Cho rằng họ là những kẻ “chiến thắng” một cuộc chiến đi, nhưng tâm lý mặc cảm thua kém của họ vẫn thể hiện qua rất nhiều mặt. Những giá trị của xã hội thời VNCH vẫn còn đó, làm cho kẻ chiến thắng ăn ngủ không yên. Hằng triệu người Bắc di cư vào Nam, sau chiến thắng Điện Biên Phủ. Hằng triệu người khác vượt biển Đông để từ bỏ chế độ CS sau chiến thắng 1975.

Rồi sau 1975, bao nhiêu triệu người miền Bắc lũ lượt kéo vào miền Nam làm việc và sinh sống. Hà Nội là thủ đô, được đảng CS chăm sóc trước miền Nam những 30 cơ mà? Sao không có làn sóng dân Nam kéo về Hà Nội? Đảng tuyên truyền rằng nhờ Mỹ đổ tiền vô nên miền Nam phồn thịnh! Sao lại bảo là Mỹ ác lắm đem quân vô giết dân Việt.

Điều nào đúng? – Cả hai điều sai !

Nói rằng thiên nhiên miền Nam trù phù hơn. Đó là ngụy biện hoặc là dốt nát. Kart Marx đã sai lầm cơ bản ở điểm nầy khi xây dựng lý thuyết Cộng Sản. Theo lý thuyết đó, đất đai và phương tiện sản xuất là suối nguồn của sự giàu có, nên CS không cho tư nhân có quyền sở hữu đất đai và phương tiện sản xuất.

Nhưng thật ra sự phong phú nằm nơi con người, đất nước nào biết chăm sóc và trân trọng con người, đất nước đó sẽ hưởng được sự thịnh vượng. Hãy so sánh Nam và Bắc Hàn. Nam Việt và Bắc Việt cũng không ngoại lệ.

Miền Nam lúc nào cũng bị quân CS đánh phá và khủng bố, chính quyền dân chủ non trẻ với nhiều CS nằm vùng, mà vẫn xây dựng được cuộc sống hài hòa cho người dân. Phát triển mọi mặt từ kinh tế, giao thông công cộng, y tế , giáo dục… Đó là lý do tại sao miền Nam thịnh vượng. Và cái trình độ dân trí đó đã kéo miền Nam vượt lên hẳn so với Hà Nội.

Rồi những người miền nam liều mình vượt biển để tìm con đường sống trong cái chết. Nếu chẳng may bị bắt trở lại thì bị tù đầy với tội danh là “phản quốc”. Khi họ ổn định cuộc sống nơi nước ngoài, gửi những đồng tiền do chính sức lao động của họ về cho thân nhân ở trong nước thì  đảng lại gọi họ là “kiều bào”, “khúc ruột ngàn dậm”, nghe sự nịnh nọt trơ trẻn mắc ói! Còn mấy cái mồm tuyên truyền thì kêu đi ra nước ngoài ăn bơ thừa sửa cặn…Nhờ những đồng tiền “bơ thừa sửa cặn” đó mà kinh tế VN vượt qua thời kỳ khô cằn do đường lối kinh tế XHCN, mọi thứ đều quốc doanh hóa, nhà nước quản lý hết….Đến lúc hết thở, nên nhà nước hết hồn, đành buông xả ra gọi là “đổi mới” !

Qua đó, có phải cái bóng mát của VNCH vẫn che cho dân trong những lúc khó khăn đó đến ngày hôm nay?

Vậy đó, Cộng Sản Bắc Việt vi phạm những hiệp ước quốc tế để giành chiến thắng nhưng những giá trị Nhân Bản của VNCH càng lúc càng âm ỉ đốt nóng những trái tim Việt Nam.

Các người cứ dùng lời lẽ sất xược để tỏ vẻ khinh miệt người khác càng làm lộ rõ các người dốt nát và kém văn hóa mà thôi. Cộng Sản Chủ Nghĩa là đỉnh cao của Xã Hội Chủ Nghĩa. Mà XHCN cũng vỡ tan theo liên bang Sô Viết rồi, còn Thiên Đàng Cộng Sản có nằm mơ cũng không gặp.

Vậy mà các người cố gào 3/// để làm cho mình cao hơn ư? Rất tiếc cái chính nghĩa Cộng Hòa đó vẫn sang mãi trong lòng dân Việt, nhất là nhân dân miền Nam. Có lẽ phải dùng đến những con số để chứng minh cho thấy cả guồng máy của nhà nước XHCNVN đã và đang sống dưới bóng mát của lá cờ mà họ gọi là 3/// đó.

Các người cứ lục tung hết sổ sách của cái gọi là “chính quyền XHCNVN” lên mà xem tổng ngân sách nhà nước dùng để trả lương cho toàn bộ công nhân viên chức nhà nước là bao nhiêu. Rồi các người xem con số đó có phải chưa bằng một nửa số tiền Việt Kiều gửi về hàng năm, trung binh là 10 tỷ USD, có năm cao hơn. Như vậy các người không ngủ dưới bóng mát của lá cờ vàng ba sọc đỏ là gi?

Tôi sẽ dẫn giải cho các người thấy, cả nước VN từ sau 1975 đến nay vẫn tiếp tục sống dưới bóng mát của lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ.

Từ ngày Sài Gòn bị “phỏng giái”, (người dân Miền Nam nói như vậy đó, nói lái là một nét đặc trưng trong văn hóa bình dân của dân nam kỳ), thì một mặt trận tiêu diệt Văn Hóa miền Nam được phát động rất quy mô và triệt để. Đó là trận chiến “Tẩy Não” dân Miền Nam, nhằm loại bỏ tư tưởng và ý thức hệ Tự Do Dân Chủ. Tất cả văn hoá phẩm từ sách báo đến âm nhạc đều bi tiêu hủy và cấm đoán. Nhưng làm sao trói buộc được tư tưởng của con người chứ?

Nhà nhà nộp sách đem đốt, việc nầy không khó, nhưng cấm dân miền Nam hát những bản nhạc đã in sâu vào tim vào óc của họ thì quả là không thể được. Khi mọi thứ đã hoang tàn đổ nát kể cả lòng người dân lành, thì những dòng nhạc trữ tình khe khẻ quay trở về như làn gió nhiệm mầu xoa dịu bớt cái nổi thống khổ của đời thường XHCN. CSVN gọi dòng nhạc đó là “Nhạc Vàng” để cân với dòng “Nhạc Đỏ” sặc mùi chém giết mà giai điệu và tiết tấu mang đậm sắc thái TC. Nhưng tới hiện tại thì họ trở nên ganh tị với cái tên gọi đó, vì nó đích đáng và đúng trên nhiều khía cạnh.

“Nhạc Vàng” không cổ súy chiến tranh mà chỉ biểu lộ những đau thương của con người trong thời chiến. Vậy tại sao người ta cấm Nhạc Vàng? Có phải ngườ ta sợ cái bóng dáng thiên thần dịu dàng và ngọt ngào đầy tình người sẽ làm hiện thân của Ác Quỷ nổi trội rỏ nét hơn chăng?

“Nhạc Vàng” một tòa lâu đài văn hóa Việt Nam Cộng Hòa bất diệt, chẳng những không hoen rỉ qua thời gian mà còn lóng lánh hơn như một kho báu cho mọi tầng lớp con dân VN suốt 3 miền và kể cả những kẻ từng lên án, vùi dập lẩn sợ sệt nó. Bao nhiêu người đã khai thác cái kho báu vô tận nầy.

“Nhạc Vàng” loài hoa mỹ miều kiêu sa, mọc lên từ bom đạn chiến tranh, tồn tại qua bao sự vùi dập, thể hiện tính Nhân Bản của một xã hội đầy tình người, đáng được trân quý như vàng. Hơn nữa thế kỷ qua, chưa có một đối thể nào lăm le đứng gần chứ đừng nói là soán ngôi.

“Nhạc Vàng”, một thứ phụ gia kỳ diệu, không thể thiếu được khi thưởng thức một ly cà phê ngon hay một chén trà thanh thoát. Một tay guitar và nhạc vàng luôn là tâm điểm cho những buổi nhậu bình dân.

“Nhạc Vàng”, một loại trầm hương hảo hạng cho bất kỳ cuộc họp mặt nào từ quê ra tỉnh, từ đám cưới đến đám tang, từ sân khấu đại nhạc hội hàng ngàn khán thính giả đến quán cà phê dăm ba người cuối phố, thậm chí là niềm giải trí duy nhất trong chốn lao tù….

“Nhạc Vàng”, là ánh lửa rực rỡ của con Phượng Hoàng hồi sinh từ tro bụi sau khi những người nhân danh CSCN đã giết nó bằng mọi khả năng của họ. Ánh lửa đó đã bùng lên, lan tỏa đến từng trái tim của chính những người mang danh hiệu là Đảng Viên ĐCSVN, bất luận là ở đâu, Nghệ Tỉnh, Hà Nội hay Sài Gòn!

Nói mãi về “Nhạc Vàng” VNCH không bao giờ cạn ý.

Nếu những lời lẽ quanh co trên đây chưa thực sự vẻ ra cái bóng mát của lá cờ vàng, chưa chứng minh được âm nhạc VNCH là Vàng ròng 24 kara thì tôi xin được dẩn quý vị vào yếu tố kinh tế của Nhạc Vàng vậy.

Từ hải ngoại đến quốc nội, bao nhiêu doanh nghiệp phát triển nhờ Nhạc Vàng, bao nhiêu ca sĩ thành danh và nên sự nghiệp, bao nhiêu người trở nên giàu có, bao nhiêu công ăn việc làm cho cái kỹ nghệ âm nhạc nầy, từ thời băng từ, đến đĩa từ, CD, kế đến phong trào Karaoke, bao nhiêu kỹ thuật viên, phòng thâu, ca nhạc sĩ, cơ sở sản xuất, phát hành, bán sĩ lẻ, thiết bị âm thanh, ..v.v  và  v.v….

Bao nhiêu Đại Nhạc Hội, tụ điểm ca nhạc… Biết bao nhiêu ca sĩ, từ Bắc chí Nam đã thành triệu phú đô la nhờ vào cái bị gọi là ” Văn Hóa Nô Dịch” đó.

“Nhạc Vàng” đã tham gia với người dân cả nước trong việc mưu sinh hàng ngày, từ quán cà phê, đến hang loạt xe đò đường dài, đến anh bán kẹo kéo, đến những em bán hàng rong hằng đêm trên phố, đến những người hành khất . . .Lớp học hát , học đàn nở rộ, tiệm sản xuất đàn guitar gia tăng, quán cà phê nhạc sống, bình dị mà trữ tình ngày càng phổ biến.

Một chiếc điện thoại thông minh, một cái mi-crô không dây, khách ngồi uống nước mía bên vệ đường cúng có thể chia sẻ với nhau một bản tình ca… ấm áp. Cái bóng mát đó càng ngày càng mở rộng ra trên nhiều lảnh vực của cuộc sống và địa phưong, lan dần đến tận các tỉnh miền Bắc… Đó không phải là bóng mát từ nên âm nhạc Việt Nam Cộng Hòa thì là gì, lửa hỏa ngục chăng?

Tôi đã thấy, ca sĩ bật nhất ĐVH, tranh thủ cho ra mắt 2,3 album nhạc vàng trong vòng một tháng, hát giành hát giựt, sợ ca sĩ khác hát trước, mất số bán. Như một tên ăn trộm, khám phá ra kho báu, hốt vội hốt vàng, nhạc vàng là vàng rồng đó.

Tôi đã thấy cũng ĐVH hát “Cho một người nằm xuống” , dĩ nhiên là hát để thu tiền, có bao giờ ĐVH nghĩ đến những trái ngọt nầy do ai vung trồng mà nên? Sao không hát cho người thương binh VNCH còn sống vất vưởng ngày hôm nay. Mang danh một điva, một nghệ sĩ , ĐVH nếu có tâm hồn nghệ sĩ, sao không dám một có lần tri ân những người đã nằm xuống để bảo vệ cho thể chế đã sản sinh ra cái kho báu âm nhạc nầy. Phải chăng vì không có tâm hồn mà chỉ hát vì lòng tham nên bị người đời gọi là Ca Nô ?

Tôi đã xem video clip của đại ca…sĩ Ngọc Sơn, đại gia từ nhạc vàng, hát trong một hội trường đầy ấp khán giả là quân đội mặc quân phục đại cán, ngực đầy huân chương “cách miệng”. Những ca khúc nhạc vàng cất cao, cả hội trường đứng dậy, hai tay đưa lên cao, đung đưa theo dòng nhạc….

Các vị đa số là đảng viên, các vị chắc đã học tập lý luận nhiều lắm, quý vị có thấy một nghịch lý vô cùng to lớn ở đây không? Hoặc là các vị có thấy xấu hổ trong lòng không? Cái mà quý vị diệt tận, giết sạch ngày hôm qua, thì hôm nay ngồi dưới cái bóng mát của cái “xác khô” VNCH mà chia sẽ hương thơm ngào ngạt của nó.

Các người là kẻ chiếm và thắng, các người hành hạ, chà đạp kẻ thất cơ lỡ vận nhiều rồi, chúng tôi không màng, lịch sử sẽ có lúc trả lại công đạo.

Nếu quý vị mạt sát VNCH thì móc cổ mà ói ra hết những gì quý vị nuốt vô từ nền văn hóa VNCH đi.

Còn như quý vị trơ trẻn, miệng thì mỉa mai : “đu càng, ba que, quần què” mà giành nhau đưa tay vào chắm mút, chúng tôi khinh lắm.

 

Hoàng Ngọc Mai
Sống Một Đời. Một Đời Để Sống!

 

More reading

Các rạp hát của Sài Gòn, Chợ Lớn và Gia Định trước và sau năm 1975

Inernet

 

A- CÁC RẠP CHIẾU BÓNG (CINÉ)

I-Trung tâm Sài Gòn

01- Rạp Al Hambra – đường Nguyễn Cư Trinh, quận 2

02-Rạp Alliance Française – 6 đường Đồn Đất, quận 1.

03-Rạp Asam (Rạp Hồng Bàng) – đường Công Lý góc Lê Lợi, quận 1

04-Rạp Casino Saigon– đường Pasteur-Lê Lợi, quận 1

05-Rạp Cathay – đường Nguyễn Công Trứ, quận 2

06-Rạp Cinéma Catinat – đường Nguyễn Thiệp, quận 1.

07-Rạp Đại Nam – 79 Trần Hưng Đạo, quận 2

08-Rạp Eden – đường Tự Do, quận 1

09-Rạp Kim Châu – 15, 17 đường Nguyễn Văn Sâm, quận 1.

10-Rạp Kim Đô – Tiếp tục đi về hướng cầu Ông Lãnh gần chợ Dân Sinh có rạp chiếu
bóng nhỏ tên là Kim Đô.

11-Rạp Kinh Đô (Sài Gòn) – Lê Văn Duyệt, quận 3.

12-Rạp Lam Sơn – Bùi Chu. Mũi tàu Lê Lai, Bùi Chu, Võ Tánh chéo góc với nhà thờ
Huyện Sĩ

13-Rạp Lê Lợi – 112 Lê Thánh Tôn, quận 1

14-Rạp Long Phụng – 234 Gia Long, quận 1

15-Rạp Long Thuận – 10 Trương Công Định và Nguyễn An Ninh, quận 1

16-Rạp Majestic – Đường Tự Do, quận 1.

17-Rạp Nam Tiến – Hẻm Nam Tiến-Bến Vân Đồn. Quận 4, Khánh Hội

18-Rạp Nam Việt – đường Tôn thất Đạm, quận 1

19-Rạp Nguyễn Huệ – đường Nguyễn Huệ, quận 1

20-Rạp Rex “cũ”- đường Nguyễn Công Trứ, quận 2

21-Rạp Rex – góc đường Lê Lợi & Nguyễn Huệ, quận 1

22- Rạp Mini Rex A & B – đường Lê Lợi, quận 1.

23-Rạp Thành Xương (Rạp Diên Hồng) – góc đường Phạm Ngũ Lão và đường Yersin.

24-Rạp Vĩnh Lợi – 121 đường Lê Lợi, quận 1

25-Rạp Khải Hoàn ngay góc đường Cống Quỳnh và đường Phạm Ngũ Lão, quận 2

26-Rạp Long Duyên – đường Hồ Văn Ngà, quận 2

27- Rạp Quốc Thanh – 271 đường Nguyễn Trãi, quận 2 Thanh.

28-Rạp Thăng Long – 148 đường Cống Quỳnh, quận 2

29-Rạp Thanh Bình (Rạp Quốc Tế) – 343 đường Phạm Ngũ Lão, quận 2

30-Rạp Khu Dân Sinh- đường Yersin, quận 2.

31-Rạp Văn Cầm – đường Trần Hưng Đạo, gần chợ Nancy, Chợ Quán.

II-Khu vực Đakao-Tân Định

32-Rạp Asam Đakao– đường Đinh Tiên Hoàng, khu Đa Kao, quận 1

33-Rạp Casino Đakao- đường Đinh Tiên Hoàng-Hiền Vưong, quận 1

34-Rạp Mô-Đẹc (rạp Kinh Đô) – đường Trần Văn Thạch, Tân Định, quận 1.

35-Rạp Kinh Thành (rạp Tân Định) – đường Hai Bà Trưng, quận 3

36-Rạp Văn Hoa Đakao – số 62, đường Trần Quang Khải, gần xóm Vạn Chài, quận 1

III-Khu vực Bàn Cờ

37- Rạp Đại Đồng (Sài Gòn) – 130 đường Cao Thắng, quận 3

38 – Rạp Long Vân – 643 đường Phan Thanh Giản, quận 3

39- Rạp Nam Quang – 147 đường Lê Văn Duyệt, quận 3

40- Rạp Olympic – 97 đường Hồng Thập Tự, quận 3.

41-Rạp Thanh Vân – 360A đường Lê Văn Duyệt, quận 3

42- Rạp Văn Lang (Rạp Minh Châu) – đường Trương Minh Ký, quận 3.

43- Rạp Việt Long (Rạp Capitol- Rạp Văn Hoa Sài Gòn Rạp Thăng Long) – 19 đường
Cao Thắng, quận 3.

IV-Khu vực Chợ Lớn

44- Rạp Đại Quang – 63, 65 đường Tổng Đốc Phương, quận 5

45- Rạp Hào Huê –372-374, đường Nguyễn Hoàng, Chợ Lớn, quận 5.

46- Rạp Hoàng Cung – đường Triệu Quang Phục, quận 5

47-Rạp Lệ Thanh A – 25 đường Phan Phú Tiên, quận 5

48- Rạp Lido – đường Đồng Khánh, quận 5

49- Rạp Oscar –Rạp cũng thuộc loại khá.

50- Rạp Palace – 890 đường Đồng Khánh, quận 5

51-Samtor -153, 161 đường Lương Nhữ Học, quận 5

52- Rạp Tân Việt – 252 đường Đồng Khánh, quận 5

53-Rạp Trung Hoa – đường Đồng Khánh- Mạnh Tử, trước nhà thờ Cha Tam, Chợ Lớn, quận 5.

54- Rạp Victory Lê Ngọc – 102 đường Tổng Đốc Phương, quận 5

55-Rạp Minh Phụng – đường Hồng Bàng, Chợ Lớn, quận 5

56- Rạp Đô Thành – bên hông chợ Kim Biên, quận 5.

57- Rạp Hồng Liên – 259 đường Hậu Giang, quận 6n

58- Rạp Hương Bình – Bình Tiên, quận 6.

59- RạpTân Bình (Rạp Cây Gõ)-146 đường Minh Phụng, quận 6

60-Rạp Tân Mỹ-2/3 đường Trần Xuân Soạn, quận 7

61- Rạp Phi Long-59, 61 Xóm Củi, quận 8

62- Rạp Mỹ Đô (Rạp Thành Chung) – góc Trần Nhân Tôn và Vĩnh Viễn, quận 10.

63- Rạp Hùng Vương -286 đường Pétrus Ky, quận 10.

64- Rạp Kha Lạc-200 đường Nguyễn Tri Phương, quận 10

65- Rạp Quốc Thái-1557 đường Trần Quốc Toản, quận 11.

V-Khu vực Gia Định

66- Rạp Văn Cầm (Phú Nhuận) – 222, 224 đường Võ Di Nguy, Phú Nhuận.

67- Rạp Cẩm Vân-287 đường Võ Di Nguy, Phú Nhuận

68- Rạp Cao Đồng Hưng – 475 đường Chi Lăng, Bà Chiểu

69- Rạp Đại Đồng (Bà Chiểu) – đường Chi Lăng- Gia Định

70-Rạp Đại Lợi – 91b2 đường Thoại Ngọc Hầu, quận Tân Bình

71- Rạp Đông Nhì-524, 526 đường Lê Quang Định, quận Gò Vấp

72-Rạp Huỳnh Long – nằm trong chợ Bà Chiểu, trên đường Châu Văn Tiếp gần cửa
chính của Lăng Ông Bà Chiểu

73- Rạp Lạc Xuân-220 đường Gia Long, quận Gò Vấp

NHỮNG NƠI CÓ PHIM KHÔNG BÁN VÉ

-Trường Taberd.

-Đơn vị Công Binh.

-Câu Lạc Bộ Mỹ.

-Đài Truyền Hình Số 11.

-Hội trường của công ty Shell.


B-RẠP CẢI LƯƠNG XƯA Ở SAIGON

74- Aristo- đường Lê Lai, quận 2

75- Rạp Nguyễn Văn Hảo – Số 30, đường Trần Hưng Đạo, quận 2.

76-Rạp Hưng Đạo – 136, đường Trần Hưng Đạo-Phạm Ngũ Lão, quận 2.

77-Rạp Lux –. Nằm trên đường Trần Hưng Đạo, cạnh chợ Nancy và đường Nguyễn Biểu (cầu Chữ Y).

78-Rạp Quốc Thanh – 271, đường Nguyễn Trãi, quận 2.

79-Rạp Thống Nhất- đường Thống Nhất, quận 1.

80-Rạp Thành Xương – góc đường Phạm Ngũ Lão và đường Yersin, quận 2.

81-Rạp Thủ Đô (Tên cũ là Eden Chợ Lớn) -125 đường Tổng Đốc Phương, Chợ Lớn,
quận 5.

TÀI LIỆU THAM KHẢO TRÊN INTERNET

1. Các rạp chiếu bóng của Sài Gòn xưa ,Thuần Hóa- 17/05/2012.

2. Ciné & rạp hát Sài Gòn, Huỳnh Văn Yên- hongoccan2017-18/06/2011.

3. Rạp Xi-Nê Sài Gòn Xưa-hongoccan2017-25/10/2016.

4. Rạp xi-nê Sài Gòn xưa và Tên đường phố Sài Gòn (Thời Pháp thuộc -Trước và sau 1975) -Hồi Ức Một Đời Người-nguoibatcao-10/08/2011.

5. Ngày Xuân vòng quanh các rạp ciné Sài Gòn-Nguyên Trần (Toronto).

6. Những rạp hát, rạp chiếu phim từng gắn bó với người Sài Gòn xưa giờ ra sao? – Phạm An-Trí Thức Trẻ-28/11/2015.

7. Rạp Xi-Nê Sài Gòn Trước 1975- Tran Dang Chi.

8. Xuân về nói đến những rạp chiếu phim ở Sài Gòn ngày xưa- Lê Quang Thanh Tâm-28/01/2017.

9. Rạp Hát Sài Gòn Xưa- Alex-hdvietnam.com.

10. Các Rạp Hát Sài Gòn Trước 1975- TAM73F.

11. Chùm ảnh: Dạo quanh các rạp chiếu phim của Sài Gòn xưa-Le Ngoc Kha Nhi & Alext-Trí Thức Trẻ-15/05/2012.

12. Gặp chủ rạp hát Đại Đồng – Con trai nhà kinh doanh rạp chiếu bóng đầu tiên ở Việt Nam- Minh Đức-04/06/2009.

13. Tết Cải Lương… Một thời vang bóng- Soạn giả Nguyễn Phương-Tháng 2-2018.

14. Sân khấu cải lương ở VN hiện nay ra sao? -Soạn giả Nguyễn Phương-Tháng 10-2017.

15. Các rạp cải lương xưa ở Sài Gòn, -Soạn giả Nguyễn Phương-Sai Gon xua-12/06/ 2012.

16. Xác rạp hát, hồn… không liên quanl- HO-QN- Tuổi Trẻ -11/2014.

17. Dân ca dân nhạc VN: Các rạp cải lương xưa ở Sài Gòn- Tình trạng cải lương hiện nay-Trần Lê Túy-Phượng- Bình luận-25/01/ 2015.

18. Nhà hát Cải lương Trần Hữu Trang: “Thánh đường” không trọn vẹn- Mai Linh/baovanhoa.vn=31/05/2017.

19. Về lịch sử người Minh Hương và người Hoa ở Nam Bộ, Nguyễn Đức Hiệp-The Observer-19/06/2016.

20. Con hẻm ngày xưa- Từ Kế Tường.

21. https://www.flickr.com/photos.

22. Chuyện tình của ông Vương Hồng Sển- Soạn giả Nguyễn Phương-Thời Báo số 626-24/03/2018.

23. Rạp & những câu chuyện kể Bài 2: Có một thời như thế- Bá Vũ-31/08/2010.

24. Ngọc Đan Thanh, loài hoa nở muộn- Soạn giả Nguyễn Phương-Thời Báo số 629-14/04/2018.

25. Hội nghị cấp cao giải cứu sân khấu cải lương tung hóa mù- Người Sài Gòn-Thời Báo số 633-12/05/2018.

26. Ấn Tượng…Saigon -Tạp Ghi Huy Phương.

27. Dakao trong tâm tưởng- Vĩnh Nhơn-Thời Báo số 334-1996/05/23.

28. Khu Dân Sinh- Một thuở Sài Gòn-Nguyễn Ðạt-02/12/ 2016.

29. Chợ trời khu Dân Sinh-Trang Nguyên-dongsongcu-30/11/2017.

Continued ……

More reading

Ăn mày cửa Phật

Có một ông Lão kéo một xe gạo nặng nề lê bước trên đường vừa đi vừa thở hổn hển, vô tình bánh xe chao đảo vì va vào một cục đá bên đường, làm cả xe gạo lật ngang. Ông lão cố hết sức nâng xe gạo lên, nhưng không nâng lên nổi. Ông mệt mỏi, mồ hôi nhễ nhại, trời nắng chang chang. Ông bất lực, ngồi bệch xuống đường. Nhìn xung quanh, ông thấy một ngôi Chùa. Bên ngoài ngôi Chùa là những chiếc xe hơi lộng lẫy.

Ông suy nghĩ và than: “Có người vừa sinh ra thì đã giàu, có kẻ làm lụng vất vả cả đời lại chẳng có gì!”

Một người phật tử đi ngang nghe thấy nên nói với ông: “Ông đã đến cửa Phật sao không vào thành tâm cầu nguyện, lại ngồi đây than thân trách phận! Người ta bảo Chùa đó rất thiêng, chính vì vậy mà khách thập phương cứ kéo đến ùn ùn”.

Ông Lão nghĩ mình đã bất lực trước cảnh nghèo túng và sự lật đổ của xe gạo, nên từ từ bước vào Chùa theo tiếng Chuông ngân trong lòng có rất nhiều điều mong ước.

Trước mắt ông nhiều người đang quỳ trước tượng Phật uy nghi khấn nguyện.

Ông đứng nhìn ngơ ngác.

Một Vị tăng bước tới và hỏi: “Ông lần đầu tiên đến đây phải không?”

Ông Lão: “Vâng! thưa Thầy lần đầu con đến nơi cửa Phật nên chẳng biết cầu nguyện ra sao. Kính mong Thầy chỉ dạy!”

Vị Tăng: “Ông mong muốn điều gì?”

Ông Lão quay nhìn những người kia và nói: “Con cầu xin đức Phật ban phát sự công bằng.”

Vị Tăng: “Công Bằng ư?”

Ông Lão: “Vâng! thưa Thầy. Con sinh ra trong một gia đình nghèo khổ, bần hàn không được học hành tử tế, từ bé đã phải tự mưu sinh. Lớn lên lấy một người vợ nghèo và nai lưng làm lụng như trâu bò, để nuôi bầy con nheo nhóc. Cuộc đời khốn khổ cơ hàn cứ thế bám theo con dai dẵng. Trong khi có biết bao nhiêu người khác sinh ra trong một gia đình giàu sang, chẳng cần cố gắng mà vẫn sống suốt đời trong nhung lụa. Như vậy thực là không công bằng! Nếu đức Phật linh thiêng xin Người hãy ban cho con một ít may mắn của những người kia!”

Vị Tăng: “Như những người kia ư?”

Ông Lão: “Chỉ cần nhìn họ là đủ biết họ giàu sang quý phái cở nào rồi. Những người nghèo khổ như con không thể hiểu nổi họ làm gì mà giàu sang lắm vậy?”

Vị Tăng: “Cái đó ta không biết? nhưng khi tới đây họ cũng chỉ là ăn mày cả mà thôi.”

Ông Lão: “Ăn mày ư? thưa Thầy!”

Vị Tăng: “Đúng! Ăn mày Cửa Phật!”

Ông Lão: “Nhưng nhìn họ giàu sang Quý phái có thiếu gì mà phải đi ăn mày?”

Vị Tăng: “Sống trên cõi đời này mấy ai thỏa mãn với những gì mình đang có. Không tin ông cứ lại gần họ xem.”

Ông Lão tò mò đi tới gần vài người, lắng tai nghe những lời cầu nguyện của họ.

– Một người đàn ông lớn tuổi mặc áo vest, thắt cà vạt trong rất chỉnh tề cầu nguyện: “Cầu xin đức Phật cứu giúp công ty con khỏi bị phá sản, hàng trăm gia đình công nhân đang trong chờ vào Công ty. Đang trông chờ vào sự lèo lái của con. Mô Phật !”

– Một người đàn bà lớn tuổi khóc thút thít:” Xin Đức Phật rũ lòng từ bi cho con sức mạnh để chiến đấu với căn bệnh ung thư quái ác. Xin ngài đừng để con phải chịu những cơn đau hành hạ, dày vò”.

– Một cô gái trẻ tuổi buồn rầu ủ rũ khấn nguyện: “Năm nay con đã gần 30 tuổi, mà vẫn chưa có người yêu thương. Con vô cùng buồn tủi, con chỉ xin Ngài linh thiêng cho con chút dung mạo để con tìm được một tấm chồng. Xin Ngài ban phước, mô Phật!”

Ông nghe được nhiều người khác xung quanh ông đều có vấn đề đau khổ để cầu nguyện.

Ông lão cảm động rơi nước mắt.

Ông bật thốt lên: “Tội nghiệp quá!”

Ông trở lại bên cạnh vị Tăng và thưa: “Thưa Thầy họ cầu xin rất nhiều điều, hóa ra họ toàn là ăn mày thật. Con cứ nghĩ trên đời này ai cũng hạnh phúc hơn con, chứ ai biết được họ cũng có nhiều nỗi khổ đến thế. Ngẫm ra con còn có nhiều điều hạnh phúc hơn họ như sức khỏe, sự vô tư chẳng hạn.

Vị Tăng: “Đúng vậy! Cuộc đời công bằng với tất cả mọi người. Nên biết an phận với thực tại và cố gắng hết sức mình để tự mình hóa giải những khó khăn trong cuộc sống, đó mới chính là một cuộc đời hoàn mỹ.”

Ông Lão nghe xong tỉnh ngộ!

Ông bước ra khỏi chùa và không cầu nguyện điều gì cả.

Ông đã không cầu nguyện điều gì cả vì tự thấy mình có thể vượt qua được khó khăn đang có của mình. So với những người giàu có kia, khó khăn của ông thật là quá nhỏ bé.

Ông trở lại bên cạnh xe gạo. Khuân từng bao gạo ra khỏi xe kéo, rồi khi không còn bao gạo nào trên xe, rất dễ dàng ông nâng chiếc xe đứng lên vững vàng trên hai bánh xe và vác gạo để lên xe.

Ông kéo xe đi trong lòng thênh thang.

 

More reading

Ý kiến nói Tây Sơn ‘giải phóng nông dân’ chỉ là huyền thoại

BBC

Sử gia George Dutton tìm lại các nguồn sử liệu Việt Nam và nước ngoài để chứng minh rằng những nhà lãnh đạo Tây Sơn trên thực tế không có mục đích giải phóng nông dân.

Sử gia George Dutton, tác giả luận án tiến sĩ về Tây Sơn: The Tay Son Uprising: Society and Rebellion in Late Eighteenth-Century Viet Nam, 1771-1802 đã viết nhiều bài về thời kỳ Tây Sơn, và công nghệ quân sự Việt Nam.

Bài ‘Rethinking the Tây Sơn Era’ (Nhìn lại thời Tây Sơn) của ông không đồng ý với hai quan điểm cũ ở Việt Nam về triều đại Tây Sơn.

Theo ông, phong trào Tây Sơn tàn nhẫn không kém gì nhà Trịnh hay Nguyễn trong việc cưỡng bức nông dân phục vụ cho các chiến dịch quân sự và các công trình xây cất.

Theo George Dutton, cuộc sống của nông dân Việt Nam ở những nơi ba anh em Tây Sơn làm chủ hay chiếm đóng còn cực khổ hơn dưới ách chúa Trịnh hay chúa Nguyễn vì quân Tây Sơn liên tục tiến hành chiến tranh.

Quân Tây Sơn cũng nổi tiếng ưa đốt phá, cướp bóc và thường họ đến đâu chỉ một thời gian ngắn là dân chúng tìm cách trốn khỏi vùng họ kiểm soát, để tránh không bị cưỡng bức vào quân đội hay chế độ lao dịch.

Đây là một trong những lý do khiến triều đại này sụp đổ nhanh chóng.

Nghĩa vụ quân sự liên miên

Theo tác giả Dutton, phong trào Tây Sơn gần như ở trong tình trạng lâm chiến triền miên. Ngoài những trận ban đầu đánh chúa Nguyễn, quân Tây Sơn đánh nhau với quân Trịnh năm 1786, sau đó nhiều lần tấn công ra Bắc, rồi xâm lăng Lào năm 1791, chuẩn bị đánh nhà Thanh để ‘lấy lại Lưỡng Quảng’ năm 1792, các trận đánh với quân Nguyễn Phước Ánh ở phía Nam…

Giữa các anh em nhà Nguyễn cũng hay có xung đột quân sự như trận Nguyễn Huệ đánh nhau với Nguyễn Nhạc năm 1787.

Và chỉ trong một trận đó, nguồn tin từ một nhà truyền giáo nước ngoài nói Nguyễn Nhạc mất tới 40 nghìn quân.

Số quân lính Tây Sơn bị giết trong các trận đánh khác cũng rất lớn.

Để có quân lính phục vụ các chiến dịch, nhà Tây Sơn đã áp dụng chính sách bắt lính cưỡng bức tàn khốc.

Sử gia George Dutton nói dù ban đầu có những nông dân hăng hái xung vào đội quân Tây Sơn, nhưng càng về sau này, hàng ngũ của họ không còn những người ‘nhiệt tình’ nữa, mà chỉ là lính quân dịch.

Dutton cũng nói trên thực tế chế độ quân dịch dưới ách các chúa Trịnh và Nguyễn cũng không kém tàn khốc đối với nông dân, nhưng dưới chế độ Tây Sơn, người lính-nông dân phải liên tục ra trận và thường bị các cấp chỉ huy đối xử tàn bạo.

Nhà Tây Sơn thẳng tay bắt lính và trừng trị nặng nề những ai không muốn theo họ.

Chế độ lao dịch

Theo George Dutton, dân chúng ở những vùng Tây Sơn làm chủ phải chịu chế độ lao dịch rất hà khắc. Dân chúng bị buộc phải tham gia xây dựng cách công trình quân sự và dinh thự.

Năm 1775, Nguyễn Nhạc bắt dân xây thành Chà Bàn để làm kinh đô.

Trong đợt tấn công ra Bắc năm 1786, Nguyễn Huệ cũng bắt dân lo việc lao dịch, gây ra phản ứng xấu trong dân chúng.

Sau khi chiếm được Phú Xuân, Nguyễn Huệ cho lính vây bắt dân, buộc họ làm việc ngày đêm để củng cố lại thành quách làm chỗ ông ta cố thủ.

Chỉ vài năm sau, Nguyễn Huệ lại bắt dân xây Phượng Hoàng Trung Đô ở Nghệ An, một công trình có tầm vóc rất lớn. Theo các sử liệu nước ngoài, dân địa phương phản đối và mạnh ai ngưòi nấy trốn.

Quân Tây Sơn còn hà khắc hơn các chúa Trịnh và Nguyễn trong việc áp dụng chế độ lao dịch. Dưới quyền của họ, quân lính bắt cả các nhà sư, phụ nữ và trẻ em đi phu. Chỉ có những bà mẹ đang chăm chon còn bú là được miễn.

Theo George Dutton, một trong những lý do khiến các công việc xây cất có nhiều dưới triều Tây Sơn là quân Tây Sơn hay đốt phá các công trình của đối thủ và cả các chùa chiền.

Việc dùng hỏa công như một cách tiến hành chiến tranh cũng góp phần tàn phá nhà cửa. Và sau khi chiếm được một đô thị, họ lại có nhu cầu phòng thủ và xây cất dinh thự cho các tướng lĩnh.

Huyền thoại cách mạng

Sử gia George Dutton cũng tìm cách giải thích vì sao có huyền thoại Tây Sơn như những người giải phóng. Theo ông, vào thế kỷ 18, trong một thời gian dài kéo qua mấy thế hệ, người dân, nhất là nông dân Việt Nam ở mọi miền đất nước đã chịu cảnh can qua không ngừng.Hàng trăm nghìn người bị giết trong các cuộc chiến giữa hai miền, Đàng Trong và Đàng Ngoài và giữa các thế lực quân sự khác nhau.

Họ quá mệt mỏi, đau khổ và luôn mong ước thoát khỏi cảnh chiến tranh, áp bức.

Triều Tây Sơn, khởi đầu bằng một nhóm thương nhân người Việt cộng tác với người sắc tộc thiểu số vùng An Khê, đã xuất hiện như một thế lực mới.

Ban đầu, họ nổi tiếng là nhóm khởi nghĩa có tài đốt phá dinh thự, nhà cửa của quan lại và chia của cho dân. Dân chúng ở những vùng chưa biết đến họ đã mơ ước được giải phóng.

Chỉ có điều những người giải phóng này sau đó đã áp đặt một chế độ cưỡng bức quân dịch và lao động công ích không kém tàn khốc so với những lãnh chúa phong kiến khác.

Theo Dutton, hiện tượng ‘mơ ước’ được một thế lực khác đối xử tốt hơn cũng xảy ra với dân ở những vùng chưa biết đến chế độ của Nguyễn Phước ánh khi ông ta còn trú ẩn ở cực Nam.

Nhìn chung, theo George Dutton thì trong suốt thế kỷ 18, không một thế lực nào ở Viêt Nam lại không áp bức nông dân, buộc họ đi phu đi lính.

Nhìn chung, nhà Tây Sơn cũng chẳng khác gì các triều khác, thậm chí còn có phần tàn khốc hơn. Nhưng theo phân tích của George Dutton thì sau khi triều Nguyễn thống nhất đất nước, hình ảnh ‘giải phóng’ của Tây Sơn phần nào đọng lại trong ký ức dân gian vì sự căm ghét đối với triều Nguyễn, chứ không phải là sự thực.

Nó được các sử gia Cộng sản sử dụng từ sau Thế Chiến II để tô vẽ ra hình ảnh ‘những anh hùng cách mạng nông dân’. Họ cũng đặt cho triều Tây Sơn ba ‘đức tính’ là ‘tính cách mạng, lòng cao thượng vì công bằng xã hội và ý chí đuổi ngoại xâm, thống nhất đất nước’.

Nhà Tây Sơn được nhìn nhận như những người tiên phong trong cuộc cách mạng được nông dân ủng hộ để thay đổi toàn bộ xã hội.

Nhưng George Dutton, từ khoa Ngôn ngữ và Văn hóa châu Á, University of California Los Angeles (UCLA) không đồng ý.

Ông cho rằng cách nhìn đầy lưu luyến về phong trào Tây Sơn là sản phẩm của việc viết lại lịch sử phục vụ cho mục tiêu của thế kỷ 20, dựa trên lời kể truyền miệng trong dân chúng theo kiểu truyền thuyết dân gian (folk tradition) mà thôi.

Toàn bài đã được trình bày ở Hội thảo quốc tế Việt Nam 2, TPHCM 07/2004.Một bản ngắn đã được đăng trên giao diện cũ của BBC Tiếng Việt cùng năm.

More reading

2 cô bé được gọi là “cặp song sinh đẹp nhất thế giới” năm xưa

Trên tài khoản mạng xã hội với 1 triệu lượt theo dõi, mẹ của hai bé gái xinh đẹp vẫn luôn cập nhật những bức hình của các con, ai cũng trầm trồ trước nhan sắc ấy.

Leah Rose và Ava Marie là hai chị em sinh đôi cùng trứng, sinh ngày 7/7/2010 tại California. Mặc dù hai con sinh đôi của anh Kevin Clements và chị Jaqi chào đời sớm hơn dự kiến tới 4 tuần rưỡi nhưng may mắn là sức khỏe của hai cô bé vẫn khá tố, lại được “trời phú” cho vẻ ngoài xinh xắn khiến ai cũng xuýt xoa, thèm ước.

Ngay từ khi sinh con ra, chị Jaqi đã luôn nhận được nhiều lời khen và sự ngưỡng mộ của những người xung quanh về khuôn mặt xinh xắn, cân đối và đôi mắt to tròn hút hồn, làn da mịn màng của hai cô bé.

 

 

 

Ngay từ khi hai bé còn nhỏ, mọi người đều khuyên Jaqi nên cho con theo nghề người mẫu để không uổng phí sắc đẹp.

Từ khi con chào đời, chị Jaqi luôn được nghe những lời khen ngợi về vẻ ngoài của hai con gái. Đa số mọi người đều khuyên Jaqi nên cho con theo nghề người mẫu để không uổng phí sắc đẹp.

Khi Leah và Ava được 6 tháng tuổi, chị Jaqi ban đầu dự tính sẽ cho con tham gia vào công ty người mẫu tuy nhiên cuối cùng chị lại quyết định gác lại ý định đó vì nghĩ rằng còn quá sớm để bắt con phải đương đầu với những áp lực như vậy.

Bên cạnh đó, Jaqi còn một cậu con trai lớn chỉ mới 2 tuổi, cuộc sống bận rộn với 3 con nhỏ thật sự không phải lúc nào cũng dễ dàng.

 

Đến năm cặp chị em sinh đôi, Leah và Ava, tròn 7 tuổi, vào ngày 7/7/2017, chị Jaqi đã lập cho các con một tài khoản Instagram và đăng những tấm ảnh đầu tiên.

Không ngờ, chỉ sau một đêm, hình ảnh hai cô bé xinh đẹp với những đôi mắt long lanh hút hồn đã khiến cho cư dân mạng vô cùng thích thú và ngưỡng mộ.

Leah và Ava rất nhanh chóng trở nên nổi tiếng như cồn, nhiều công ty người mẫu sau đó cũng lần lượt kéo đến đề nghị ký hợp đồng với hai cô bé.

Sau khi hỏi về nguyện vọng của hai con gái, chị Jaqi đã ký hợp đồng với hai công ty người mẫu và nhận về rất nhiều hợp đồng chụp ảnh cho nhãn hàng thời trang trẻ em, tạp chí…

Quả thực vẻ đẹp không góc chết của cặp chị em này đã khiến cư dân mạng phải xuýt xoa và không ngại phong tặng danh hiệu “cặp sinh đôi đẹp nhất thế giới”.

 

 

 

Hiện tại tài khoản Instagram của hai chị em với tên gọi The Clements Twins đã có tới 1 triệu lượt theo dõi chỉ sau hơn 1 năm, một con số ấn tượng mà bất kỳ người nổi tiếng nào cũng đều ao ước có được.

Giờ đây, hơn 1 năm sau khi bỗng nhiên nổi như cồn trên mạng, cặp chị em sinh đôi đã lớn hơn rất nhiều nhưng có một điều không thay đổi, ấy là nét đẹp thanh tú, không tì vết của hai cô bé, đặc biệt là đôi mắt sâu thẳm như chứa đựng cả đại dương bao la, hớp hồn bất kỳ ai nhìn thấy.

Trên tài khoản mạng xã hội với 1 triệu lượt theo dõi, mẹ của hai bé gái xinh đẹp vẫn luôn cập nhật những bức hình của các con, ai cũng trầm trồ trước nhan sắc ấy.

Cùng ngắm nhìn những bức ảnh của hai bé gái xinh đẹp được mệnh danh là “cặp song sinh đẹp nhất thế giới”:

Dù đã cao lớn hơn rất nhiều nhưng hai chị em vẫn sở hữu khuôn mặt vạn người mê.

 

 

 

 

Gia đình hạnh phúc của Leah Rose và Ava Marie.

kenhsao.net

 

More reading

Rộn rã một thời báo Tết học sinh Sài Gòn

BBC

Những bìa báo xuân lưu dấu một thời học trò Sài Gòn
Báo Xuân Trưng Vương 1974

Trong thời buổi báo giấy dần trở nên xa lạ với bạn đọc thì việc học sinh trung học làm báo bán được hàng nghìn bản vào dịp Tết quả là sự lạ. Tất nhiên chuyện xảy ra cách đây cũng hơn nửa thế kỷ tại Sài Gòn và các tỉnh phía Nam.

Bộ mặt của trường

Gặp nghệ sĩ, nhà nghiên cứu Trịnh Bách tại buổi giới thiệu Sách Tết ở Hà Nội, ông lại mang chuyện làm báo Tết thời còn học trường Võ Trường Toản- Sài Gòn ra kể: “Báo Tết của học sinh được đón nhận rầm rộ. Nó giống như danh dự của trường, thể hiện trình độ văn hóa học sinh của trường, nên thi đua kinh lắm,bài vở chuẩn bị cả năm.”

Báo Tết của học sinh gọi là “giai phẩm Xuân” đầu những năm 1970 in offset, bìa màu với trường giàu ở thành phố, còn tỉnh lẻ quay roneo- cốt sao vừa túi tiền học trò. Cả trăm trang đâu phải chuyện chơi. Nhà văn Lê Văn Nghĩa nhớ mỗi lần in cỡ 1-2 ngàn bản. Còn theo Trịnh Bách, có trường in tới 5 ngàn bản- trong khi tạp chí Bách Khoa thời hoàng kim cũng chỉ được 4.500 (thống kê của Nam Bộ đất và người). “Vì ở những trường lớn, ngoài số báo bán cho học sinh và phụ huynh, còn phải in đủ để bán sang các trường khác và các sạp báo,” ông Bách nói.

Nhà báo Phạm Công Luận trong tập 1 Sài Gòn chuyện đời của phố (NXB Văn Hóa Văn Nghệ 2015) bổ sung nguyên nhân bùng nổ báo Tết học sinh khi đó:

“Báo Xuân học đường là cơ hội của các cây bút học đường do báo chí người lớn thu hẹp dần đất dành cho tuổi trẻ, nhiều tờ báo khác bị đóng cửa do tình hình khó khăn thời chiến.”

Báo chí là một trong những hoạt động quan trọng của hiệu đoàn- tổ chức sinh hoạt ngoại khóa (thể thao, văn nghệ…) của học sinh trong trường do các học sinh ưu tú trong các lĩnh vực đó cầm chịch.

“Vì thế, trước tháng 12 dương lịch là các trưởng ban (báo chí) các lớp- không phân biệt lớn nhỏ (trường thời đó gộp cả cấp II và III- PV)- được lệnh của trưởng khối ‘báo chấy’ toàn trường kêu gọi tham gia viết bài cho giai phẩm trường mình. Quyền lợi của ‘nhà văn, nhà thơ’ là được đăng bài và hãnh diện với bạn bè, ngoài ra không còn gì hết”- Lê Văn Nghĩa viết trong bài Tết và giai phẩm học trò (đăng báo Công an TP HCM Tết năm nay).

Ông Nghĩa cho hay, bài vở sau khi được nhóm báo chí xử lý phải chuyển cho giáo sư hướng dẫn báo chí đọc, rồi cũng phải có giấy phép từ Bộ Thông tin mới được đem đi in.

Báo Tết của học sinh Sài Gòn phát hành cả ở các tỉnh lân cận như Tây Ninh, Biên Hòa, Đồng Nai… Những học sinh khéo ăn nói nhất được cử đi làm nhiệm vụ bán báo. Nhiều trường nam nữ học riêng nên nhiệm vụ gây phấn khích nhất là mang báo sang trường khác phái bán. Lê Văn Nghĩa, học Petrus Ký từ 1965 đến 1972 so sánh: “Nó giống như thám hiểm một thế giới khác vậy, lạ lắm…”

Công phu bán báo

Trong cuốn truyện dài Mùa hè năm Petrus (NXB Trẻ- 2013), Lê Văn Nghĩa dành hẳn hai chương kể về hai chuyến “thám hiểm” của đội bán báo Petrus Ký sang trường nữ Gia Long và ngược lại. Trích phát biểu của trưởng khối báo chí Petrus Ký tại trường bạn: “Hôm nay, học sinh Petrus chúng tôi nhân mùa Xuân về, đem miếng trầu cay đến để giới thiệu với những người bạn gái Gia Long những tình cảm chân thành. Mai đây, rồi chúng ta sẽ rời bỏ ngôi trường yêu dấu của mình để tung bay vào vạn nẻo đường đời, nhưng những kỷ niệm đời học sinh sẽ vẫn còn mãi vì nó được ghi đậm bằng những áng văn chương thời học sinh…” Thính giả vỗ tay nhiệt liệt.

Những bìa báo xuân lưu dấu một thời học trò Sài Gòn
Báo Xuân Gia Long 1975

Bản quyền hình ảnh Phạm Công Luận
Image caption Báo Xuân Gia Long 1975

Theo truyện thì bán báo cho nữ sinh coi vậy mà dễ, các cô cùng lắm chỉ trêu các cậu là “ốm nhom như thằng ghiền” hay “thi sĩ ròm”.

– Em ơi trong cuốn giai phẩm này có truyện nào giống truyện Vòng tay học trò không em?”

– Làm sao mà có được anh. Tụi mình là học sinh mà.

-Như vậy thì có chuyện “vòng tay em” không?

Trên đây là một mẩu đối thoại giữa cô bán báo Gia Long với các quỷ nam Petrus Ký trong Mùa hè năm Petrus. “Sốc” hơn, một nam sinh lớn tuổi có tí cay cú vì bị gọi là “em” đã “len lén đi tới đi tới phía sau lưng” “đánh nhẹ vào mông” cô bán báo. Theo nhà văn thì đúng là hai bên trêu chọc nhau dữ dội, đối đáp có thêm thắt, còn hành động “metoo” kia là có thật. 

Nhưng đến khi đem ra thi thố văn chương thì biết ai “chị” ai “em”. Cuộc thi báo tết học sinh tháng 2/1975 có trên 50 tờ tham gia. Ban Giám Khảo là các nhà văn nổi tiếng thời bấy giờ Minh Quân, Minh Đức Hoài Trinh, Bình Nguyên Lộc, Võ Phiến, ố Oanh, Lê Tất Điều, Nguyễn Mộng Giác…”

Các trường ở Sài Gòn gửi thẳng đến Ban Giám Khảo, các trường ở tỉnh lỵ, quận lỵ thì Ty giáo dục phải tuyển chọn trước khi gửi về.” nhà báo Phạm Công Luận cho hay.

Những bìa báo xuân lưu dấu một thời học trò Sài Gòn
Báo Xuân Trần Lục 1971

Bản quyền hình ảnh Phạm Công Luận
Image caption Báo Xuân Trần Lục 1971

Kết quả, giai phẩm xuân nữ trung học Gia Long chiếm giải Nhất, kế đến là nữ trung học Bùi Thị Xuân (Đà Lạt), nam trung học Võ Trường Toản giải Ba. Hai trường nữ Sương Nguyệt Anh,  Lê Văn Duyệt cùng Petrus Trương Vĩnh Ký chia nhau Khuyến khích. 

Các cây bút nữ được giám khảo nhận xét “tình cảm trong thi ca phong phú hơn, đối thoại trong truyện ngắn linh hoạt hơn”.

Căn nguyên theo Lê Văn Nghĩa:

“Các ‘nường’ dư thời giờ suy tưởng ra những ý hay văn đẹp, còn các chàng bị Sở Động Viên nhắc nhở nếu thi không đậu sẽ vào quân trường nhe các em, cha mẹ hăm he nếu không thi đậu năm nay thì đời con sau nầy sẽ hát bài Xuân nầy con không về nhá liệu mà cái thần hồn… Còn tinh thần đâu mà thơ với truyện!”

Theo Lê Văn Nghĩa thì khoảng thời gian đầu thập kỷ 1970 ở miền Nam, văn chương nữ cũng ở thế thượng phong trên “thị trường chữ nghĩa”. “Vì người sáng tác thuộc phái nữ, đề tài sáng tác, nhân vật điển hình ở phái nữ, và cả độc giả cũng là phái nữ… Ngoài xã hội phụ nữ chiếm phần ưu thế thì trong cuộc tranh đua giữa các báo xuân học đường, phái nữ cũng phải chiếm ưu thế”- nhận định của bán nguyệt san Bách Khoa số 425, phát hành tháng 3/1975.

Không thờ ơ trước thời cuộc

Theo Phạm Công Luận, Gửi người em lớp 6- thơ của Trần Bích Tiên, lớp 10 trường Bùi Thị Xuân từ giai phẩm Xuân đã được đăng trang trọng trên Bách Khoa- tạp chí uy tín thu hút các học giả hàng đầu miền Nam lúc đó. Bài thơ có đoạn: “Này em lớp sáu này em nhỏ/ Em hãy dừng chân một chút lâu/ Chị vuốt tóc em rồi chị nhớ/ Tóc em thơm ngát mùi hương cau/ Hương cau vườn chị xa như tuổi/ Ba má chị nằm dưới mộ sâu/ Vườn cũ nhà xưa tàn với lửa/ Chị đi về hai buổi âm u…”

Cạnh đó là thơ của Nguyễn Đăng Châu trong báo Đất Hồng trường Phan Chu Trinh, Đà Nẵng: “Anh nói bé nghe chuyện làng chuyện xóm/ Chú Bảy anh Ba ngã xuống hôm nào/ Đường quê mình đi dày công nuôi nấng/ Bằng xác bà con sữa mặn má đào…”

Lê Văn Nghĩa dẫn lời tựa giai phẩm xuân 1972 của trường Tân Văn- Tân Việt: “Tuổi trẻ thì bất hạnh bởi thực tại phũ phàng; lớn lên trong lửa đạn để tha thiết mơ vói đến hình ảnh thanh bình-hình ảnh chưa một lần diện kiến. Ở ý nghĩa đó, tuyển tập giai phẩm nầy hiện diện mong bày tỏ phần nào những khát vọng của lớp người trẻ tuổi…” Như vậy bất chấp chủ điểm Xuân Tết, những cây bút trẻ còn trên ghế nhà trường vẫn đầy ưu thời mẫn thế.””Trước 1975, học sinh chững chạc hơn bây giờ,” Phạm Công Luận nhận định.

“Vì các hoạt động ngoại khóa ở Sài Gòn hết sức sôi nổi, thứ nữa thời chiến bao giờ giới trẻ cũng trưởng thành sớm.” Theo Trịnh Bách, chính việc làm báo góp phần làm cho học sinh thời đó “đứng đắn” hơn, ngoài cũng do chương trình giáo dục. Tức là lớp 1 có cả môn “phổ thông thường thức” dạy quét nhà, rửa rau, rửa bát… trong khi các nhà khá giả cho con đi học thêm vẽ, nhạc. Lớp 4-5 ngoài bơi, học cả phụ mẹ dưỡng nhi, dưỡng thai. Lớp 9 ngoài học về giới tính trên lớp, giáo viên còn dẫn học sinh đến rạp xem những bộ phim đặc dụng như Helga và chồng của Thụy Điển.”

Mỗi lớp cấp II trở lên đều có một học sinh làm trưởng ban báo chí – chịu trách nhiệm làm bích báo lớp. Mỗi trường lại có vài thi văn đoàn do học sinh tự lập để trau dồi việc viết lách, ngoài phục vụ nội san còn gửi các báo bên ngoài như Thiếu Nhi, Tuổi Ngọc, Thằng Bờm, Tuổi Hoa…

Báo tường hay nội san là hoạt động không có gì lạ tại các trường phổ thông thời gian gần đây, nhưng phát triển chuyên nghiệp đến mức trở thành “ngoại san” như thuở trước 1975 chắc chắn bất khả, và cũng không cần thiết. Đơn giản, mỗi thời phải có cách làm, cách chơi riêng để đánh dấu hoa niên.

 

More reading

Singapore trong tâm trí người Việt

BBC

Năm huyền thoại trong tâm trí người Việt về Singapore

Với nhiều người Việt Nam, Singapore ngày nay là một hình mẫu của phát triển hiện đại, thịnh vượng, tiện nghi và kỷ luật.

Raffles
Sir Thomas Stamford Raffles của Anh
lập thương cảng Singapore đầu năm 1819
từ một làng chài

 Có lãnh đạo Việt Nam muốn TP HCM phấn đấu ‘sánh vai’ với Singapore.
Điều này không lạ vì Singapore nay còn làm ‘ông chủ cũ’ Anh Quốc ngưỡng mộ.
Thăm Singapore đầu năm 2019, Ngoại trưởng Anh Jeremy Hunt nói “Anh Quốc muốn học nhiều thứ từ Singapore”.

Đảng Bảo thủ thì mơ Anh sau Brexit thành “Singapore của Biển Bắc”, tự do, thịnh vượng và chỉ bỏ neo bên bờ châu Âu mà không còn gắn kết với EU.

Thật là chuyện gió đổi chiều sau 200 năm.
Vì 28/1 vừa qua là dịp kỷ niệm ngày Sir Thomas Stamford Raffles lập thương cảng Singapore năm 1819 từ một làng chài.

Nhưng để hiểu về Singapore và tránh các ngộ nhận và rút ra bài học đúng, có lẽ cũng cần xem lại một số huyền thoại về đảo quốc này.

Huyền thoại 1: Từ hòn đảo nghèo nàn thành đô thị hiện đại

Đây là huyền thoại do chính đảng Nhân dân Hành động cầm quyền ở Singapore không ngừng tô vẽ.

Cố Thủ tướng Lý Quang Diệu đã rất khéo trong việc tạo ra ‘story’ độc đáo về nước ông “từ thế giới thứ ba vươn lên thế giới thứ nhất” chỉ trong một hai thế hệ.

Đúng là khi tách khỏi Liên bang Malaysia để độc lập năm 1965 thì ngân quỹ quốc gia Singapore rất ít tiền.

Nhưng Singapore đã thừa hưởng toàn bộ cơ sở hạ tầng của một thương cảng “thuộc hàng giàu có bậc nhất thế giới” ngay từ thế kỷ 19, theo Britannica.

Năm 1867, Singapore chuyển quy chế từ một cảng tự do (free port) của chính quyền Bengal thuộc Anh sang quy chế thuộc địa (colony), do London trực trị.

 Singapore năm 1900
Một đám rước của cộng đồng Hoa tại Singapore năm 1900

Các khoản thu hàng năm cứ dần tăng lên hàng chục lần kể từ năm 1824.

Cuối thế kỷ 19, Singapore đã là ‘hòn ngọc Đông Nam Á’ của London, với lãi ròng hàng năm 90 triệu đô la (1,7 tỷ ngày nay) với 220 nghìn dân.

Khu phố chính, các dinh thự, trường học, nhà thờ được xây theo mô hình Jackson thẳng tắp, đẹp đẽ.

Giữa thế kỷ 19, Hong Kong có nhiều dịch bệnh khiến Anh chọn Singapore làm nơi đóng hạm đội châu Á.

Đến năm 1923, Anh đầu tư 60 triệu bảng vào quân cảng này và tới Thế Chiến 2 đã có 80 nghìn quân đóng ở Singapore.

Năm 1942, Nhật Bản thắng Anh, chiếm Singapore, đổi tên đảo thành Chiêu Nam và coi là phần lãnh thổ Nhật.

Một đô thị, hải cảng như thế không thể là hòn đảo ‘nghèo nàn’.

Huyền thoại 2: Singapore luôn là xứ sở của kỷ luật và đạo đức

Singapore từ thời Lý Quang Diệu đã tiếp quản luật Anh, giáo dục Anh và những giá trị khắc kỷ về hành chính của kỷ nguyên Victoria để lại, gồm cả hình phạt roi.

Đánh roi không phải hình phạt người Anh nhằm hạ nhục người bản địa mà luôn được dùng trong trường nội trú ở Anh cho cả con nhà quý tộc.

Ngày nay, Singapore vẫn trừng phạt các vi phạm hành chính rất nặng và xử tử dân buôn ma tuý.

Nhưng hòn đảo ban đầu lại phất lên nhờ thuốc phiện.

Jeevan Vasagar nhắc lại rằng trong thế kỷ 19, nguồn lợi buôn nha phiến vào Trung Quốc đem lại cho Singapore sự giàu có chưa từng thấy.

“Chừng 30-55% nguồn thu của chính quyền thuộc địa tại Singapore đến từ buôn nha phiến, và vô số dân buôn Trung Hoa làm trung gian cho người Anh cũng giàu lên nhanh chóng.”

Bản thân Singapore thu nhận hàng vạn di dân từ Trung Hoa đến làm ăn, và đây là một xã hội xô bồ, năng động mà cũng đầy tệ nạn.

Jean Abshire trong cuốn Lịch sử Singapore mô tả thương cảng này ‘vô luật lệ như nước Mỹ thuở chinh phục Viễn Tây’ (lawless frontier).

Người Anh làm chủ nhưng các doanh nhân, dân phiêu lưu Armenia, Pháp, Do Thái, Mỹ…đều có mặt, cùng người Hoa, Mã Lai, Ấn…đến Singapore tìm vận may.

“Có một xã hội người Hoa hút thuốc phiện, đĩ điếm, cờ bạc, cướp biển và những tay lính thủy Anh say xỉn, bạo lực” và đủ các loại cò mồi, lừa đảo.

Người Hoa cũng thường xuyên dùng thuyền đem di dân nhập lập vào Singapore để tăng quân số cho dân làm thuê được các bang hội và băng đảng kiểm soát.

Huyền thoại 3: Singapore phát triển nhờ các giá trị châu Á

Singapore
Hải quân Singapore duyệt đội danh dự ở quân cảng Changi

Sau khi nhận trao trả độc lập, Singapore không làm cách mạng đập bỏ ‘quá khứ thực dân’ theo trào lưu trong vùng khi đó.

Trái lại, ông Lý Quang Diệu đã tiếp nhận hoàn toàn di sản của Anh về luật pháp, kể cả luật giao thông, và nhất là hệ thống giáo dục, ngôn ngữ từ Anh Quốc.

Ông Lý Quang Diệu từng nói nhờ phổ cập tiếng Anh là Singapore liên kết được nhóm dân Hoa, Ấn và Mã Lai đã thành công kinh tế.

Tuy thế, là người tốt nghiệp Cambridge và LSE ở Anh ra, ông Lý lại nêu ra về giá trị châu Á để tạo sự tự tin cho người Singapore.

Nhờ hệ thống toà án xử theo luật Anh mà Singapore có thể duy trì vai trò ‘trọng tài’ trong các thương vụ quốc tế.

Càng gần đây, lo ngại Trung Quốc lũng đoạn luật pháp Hong Kong lại khiến dân làm ăn tiếp tục tìm đến Singapore.

Huyền thoại 4: Singapore là thương cảng độc đáo nhất Đông Nam Á

Hàng trăm năm trước khi người Anh tới, đảo Singapura đã là một điểm trung chuyển hàng hóa của các vương quốc mà nay thuộc về Malaysia hoặc Indonesia.

Người Singapore ngày nay cũng nhắc lại lịch sử không phải 200 năm mà là 700 năm của hòn đảo, từ thời kỳ văn hóa Ấn giáo và Hồi giáo.

Cuốn sách ‘Singapore: A 700-Year History’ của chính phủ công bố gần đây bác bỏ huyền thoại về “một làng chài vắng vẻ” khi Sir Stamford Raffes tới:

“Singapore khi đó đã là một bến cảng sôi động của vương quốc Hồi giáo Johor-Riau…”

Vai trò của người Anh là hiện đại hóa một truyền thống thương mại đã có trong lịch sử hải dương bên Eo biển Malacca.

Thậm chí lịch sử phát triển của Singapore không phải lúc này cũng “thuận buồm xuôi gió”.

Ở gần, Singapore vẫn phải cạnh tranh với ít nhất là ba thương cảng khác : Malacca, Penang, Batavia (Jakarta ngày nay).

Ở xa hơn, Singapore bị Calcutta và Hong Kong cạnh tranh mạnh và đã có lúc – giống như hiện nay – bị Hong Kong giành nguồn lợi từ giao thương với Trung Quốc.

Huyền thoại 5: Singapore từng kém Sài Gòn

Như đã nói ở trên, Singapore từng đóng góp rất lớn cho thương mại của Đế quốc Anh tại châu Á về lợi tức.

Nhưng nói là Singapore từng kém cả Sài Gòn thì không hoàn toàn đúng.

Hai đô thị này có hai vai trò khác nhau, tùy vào ông chủ thuộc địa thời đó.

Ban đầu, Singapore là thương cảng thuộc chính quyền Bengal của Anh và sau thêm nhiệm vụ làm quân cảng.

Còn Sài Gòn vốn là thủ phủ của Đông Dương từ 1887 đến 1902, nên có vai trò chính trị quan trọng hơn với Pháp.

Nhưng về độ trù phú, giàu có thì Singapore thuở ban đầu đã hơn Sài Gòn, như tường thuật của Phạm Phú Thứ ((1821-1882) viết trong Ký sự đi Tây (1863).

Số phận của Singapore lên xuống cùng kinh tế khu vực.

 Sài Gòn
Cảng Sài Gòn năm 1950

Singapore 1972

Hai tiếp viên Shareen Loh và Lily Tian của Singapore Airlines
trong chuyến bay của phi cơ Boeing 707 đầu tiên của hãng này
đến sân bay Tân Sơn Nhứt, Sài Gòn năm 1972

Năm 1842, Anh cho lập cảng Hong Kong, và thương mại của Singapore bị sụt giảm ngay.

Sau đó, việc Pháp lập ra hai cảng Sài Gòn và Hải Phòng ở Đông Dương cũng làm vị thế của Singapore tiếp tục giảm đi.

Singapore từ chỗ kiếm tiền nhờ buôn nha phiến và trà đã nhanh chóng tìm nguồn lợi kinh doanh ở các vùng xung quanh: Malaysia, Indonesia và thành công trở lại.

Sang đầu thế kỷ 20 Singapore thành cảng xuất khẩu thiếc và nông sản lớn nhất Đông Nam Á.

Sau này, khi xảy ra Chiến tranh Việt Nam, Singapore cũng kiếm lời nhờ làm dịch vụ cho quân đội Mỹ ở Nam Việt Nam.

Còn cụ thể về câu nói của Lý Quang Diệu so sánh Singapore với Sài Gòn thì đã có nhiều diễn giải sai.

Ông Lý từng nói rằng, “Nếu ai đó nhìn vào Sài Gòn và Singapore năm 1954 thì người đó sẽ nghĩ Singapore hết thời rồi, chứ không phải Sài Gòn” (If one looked at Saigon and Singapore in 1954, one would have said Singapore was the goner, not Saigon).

Nhưng trên thực tế thì Singapore cuối cùng đã thành công, còn VNCH thì không, vì nhiều lý do.

Nguyên văn câu của ông Lý Quang Diệu vế này là “Saigon can do what Singapore did.

Đó là vào năm 1954, khi cuộc chiến chưa tàn phá Nam Việt Nam.

Còn tới 1974, Singapore đã có 2,3 triệu dân, đông hơn thủ đô VNCH Sài Gòn (325 nghìn), và có thu nhập bình quân đầu người cao hơn Nam Việt Nam.

Sự thật mang tầm huyền thoại về Singapore là tính năng động và thực dụng của lãnh đạo đảo quốc, gió chiều nào cũng xoay buồm ra biển được.

Vẫn trong câu nói về Sài Gòn, ông Lý cả quyết, “Cứ tìm được nhóm người có năng lực là làm được” (If you can find the group of men who could do it).

Điều quan trọng nhất là con người.

singapore

Thủ tướng Singapore Lý Hiển Long (áo hồng)
thăm tầng 49 tòa nhà Bitexco ở TP Hồ Chí Minh tháng 3/2017

 

More reading