Người dân Nhật đón năm mới dương lịch tại Đền Minh Trị, Tokyo. 1/1/2019.
Có một dân tộc Đông Á nhưng không đón Tết nguyên đán âm lịch, đó là dân tộc Nhật Bản.
Nhật dịp xuân mới âm lịch, mời độc giả nghe học giả Đỗ Thông Minh, một nhà nghiên cứu văn hóa và ngôn ngữ sống rất lâu tại Nhật Bản cho biết một số điều xung quanh việc người Nhật bỏ Tết âm lịch hơn 100 năm trước đây.
Học giả Đỗ Thông Minh: Họ là một quốc gia Đông phương nên cũng có ngày Tết ta. Rồi tiếp xúc với phương Tây họ có thêm ngày nữa thành ra hai ngày Tết âm lịch và dương lịch như chúng ta vậy. Nhưng tới thời Minh Trị Thiên Hoàng, lên ngôi năm 1868, tức trước trận Mậu Thân của mình đúng một thế kỷ, nói vậy để dễ nhớ, và năm năm sau, tức 1872, với trào lưu đổi mới, canh tân để đuổi theo Tây phương, họ thấy hai cái Tết như vậy lộn xộn. Hồi đó người Nhật đã mạnh hơn mình nhiều trong chuyện giao dịch quốc tế, hết Tết tây rồi lại Tết ta, nó trở ngại, với lại hai cái giao dịch nó gần nhau quá, đâm ra nó phí thì giờ. Thế là người Nhật bèn đổi, nhập hai cái Tết làm một. Mà bây giờ cuộc sống của mình không còn ảnh hưởng mặt trăng nhiều nữa, nên cái âm lịch không còn ảnh hưởng nhiều mà vấn đề là hội nhập với trào lưu thế giới. Nhưng phong tục Tết họ không đổi, mà chỉ dời ngày thôi.
Cho tới ngày hôm nay vậy là người Nhật đã đổi 146 năm rồi. Trên lịch của Nhật chỉ còn ngày tây, và không còn người Nhật nhắc đến Tết ta nữa cả.
Kính Hòa RFA: Trong hơn 100 năm đó thì có khi nào người Nhật tiếc nuối những ngày tháng cũ đó không, vì ta biết họ cũng là một dân tộc rất trọng truyền thống?
Học giả Đỗ Thông Minh: Bất cứ quốc gia nào cũng có sự tranh chấp giữa mới và cũ. Thành ra ban đầu tôi nghĩ là người Nhật cũng tranh cãi dữ lắm. Như Việt Nam mình bây giờ mỗi năm tới Tết, thì cứ rộ lên chuyện có nên đổi hay không.
Một trong những người nêu ý kiến này là ông Võ Tòng Xuân. Ông học nông nghiệp bên Phi Luật Tân, nhưng có thời gian sang Nhật nghiên cứu trình luận án tiến sĩ về nông nghiệp. Ông cũng là đại biểu quốc hội, và có vài lần ông đưa vấn đề này lên. Nhưng dường như một số trí thức khác của Việt Nam cho rằng âm lịch nó đã thấm vào mình thì vậy nó mới có không khí Tết, chứ ăn tết dương lịch thì nó không có không khí tết. Mình còn đi đôi với nào là ông táo về trời, giao thừa, lễ lạt đủ thứ hết, mà đổi thì nó tréo cảng ngỗng, đổi sẽ khó.
Khoảng tám thế hệ rồi, người Nhật không còn ai quan tấm đến chuyện đó (Tết âm lịch) hết.
-Học giả Đỗ Thông Minh.
Vấn đề ở đây là quán tính văn hóa. Nhật cũng biết điều đó, họ cũng rất bảo thủ chứ không phải không. Nhưng trước trào lưu đuổi theo Tây phương, để hòa nhập và tiến bộ, cho nên họ dứt khoát, mặc dù lúc đầu cũng có dư luận phản đổi dữ lắm.
Nhưng đã một thế kỷ rưỡi rồi, khoảng tám thế hệ rồi, người Nhật không còn ai quan tấm đến chuyện đó hết.
Kính Hòa RFA: Là một người Việt Nam, có kinh nghiệm với người Nhật, sống ở Nhật rất lâu năm, thì theo ông với tình hình Việt Nam hiện tại, xã hội Việt Nam hiện tại thì việc đổi sang một cái tết duy nhất là dương lịch thì chúng ta sẽ được lợi gì? Không lợi gì?
Học giả Đỗ Thông Minh: Đối với một vấn đề văn hóa lớn của dân tộc như vậy thì nó có nhiều cách nhìn, có lợi hay không lợi, và chúng ta có chứng minh của nước Nhật rồi. Vấn đề nhưng chúng tôi trình bày lúc nãy, đó là quán tính văn hóa. Bây giờ nếu mà hỏi thì chúng tôi nói rằng hai cái tết nó như vậy, nghỉ nhiều, mà trong thời gian nghỉ không giao dịch quốc tế được.
Việt Nam lại có vấn đề giao thông rất là hỗn loạn, tai nạn lúc tết nhiều lắm.
Đón Tết âm lịch tại phố Tàu Yokohama. 2017.
Thành ra nói về cái lợi thực dụng thì nên đổi, nhưng mà về mặt văn hóa thì phải có thời gian để chuẩn bị tin thần. Mà cái thay đổi này nó là quán tính văn hóa, nó là một khía cạnh trong nhiều vấn đề của người Việt. Tôi cho rằng nếu mà đổi được thì nó cũng là một cái kích thích để đổi nhiều cái tư duy, cái văn hóa khác.
Việt Nam mình thấy cái gì không lợi thì nên đổi, chứ nếu ôm khư khư cái quán tính văn hóa thì sự vươn lên của xã hội mình khó bắt kịp thế giới.
Kính Hòa RFA: Nhưng nếu nhìn ở khía cạnh khác, ví dụ như ở Mỹ, hai kỳ lễ Tạ ơn và Giáng sinh rất gần nhau. Và theo một số phân tích thì lễ lạt cũng là dịp mua sắm, kích thích kinh tế. Vậy nếu chúng ta giữ hai kỳ lễ Tết theo hướng đó thì sao?
Đối với một vấn đề văn hóa lớn của dân tộc như vậy (Tết âm lịch) thì nó có nhiều cách nhìn, có lợi hay không lợi.
-Học giả Đỗ Thông Minh.
Học giả Đỗ Thông Minh: Vâng chắc chắn. Như chúng tôi đã nói, một vấn đề lớn luôn có cái lợi, cái hại. Cái hại là nghỉ nhiều, sức sản xuất chắc chắn là xuống rồi, rồi tai nạn nữa. Nhưng mà kích thích nền kinh tế bằng mua sắm cũng có nữa.
Thì mình có kinh nghiệm Nhật Bản, họ cũng y như mình thôi. Ở Nhật vào dịp tháng năm họ nghỉ rất dài đến 10 ngày, với nhiều cái lễ dính liền nhau.
Vấn đề làm việc và nghỉ là một sự quân bình cho thương trường. Khi xã hội thay đổi thì sự sắp xếp, cơ cấu, bên sản xuất và bên tiêu thụ phải thích ứng. Giống như ngày xưa buôn bán trao tay, bây giờ online, internet hết.
Kính Hòa RFA: Hôm nay là đúng mùng một Tết âm lịch, đứng ở Nhật, một nơi bỏ Tết âm lịch lâu lắm rồi, ông có nhớ không khí Tết âm lịch Việt Nam không?
Học giả Đỗ Thông Minh: Thật ra bên Nhật vẫn có không khí Tết âm lịch vì có ba khu phố Tàu, Yokohama, Kobe, và Nagasaki. Và phố Tàu bên Nhật có đặc điểm là rất sạch sẽ. Nói đến phố Tàu ta nghĩ đến dơ, nhưng sống với Nhật thì không dơ được.
Họ là phố Tàu, họ ăn hai cái tết. Rồi một số người Nhật cũng vui chơi. Người Nhật đốt pháo bông vào mùa hè, còn Tết thì họ lắng mình với thiên nhiên, về quê thôi. Thành ra Tết thì âm thầm vắng lặng chứ không rộn ràng như mùa hè. Mùa hè đốt pháo bông lớn lắm. Đối với người Nhật thì Tết âm thầm thôi, nhưng nếu thích rộn ràng thì xuống phố Tàu.
Phố Tàu đón tết tây theo Nhật rồi làm tết ta luôn. Cộng đồng người Việt chúng ta hay cộng đồng người Hoa tại đất Nhật cũng ăn hai cái tết. Người Nhật chỉ một thôi.
Kính Hòa RFA: Tức là nhà của học giả Đỗ Thông Minh vẫn có bàn thờ gia tiên trong mấy này này phải không ạ?
Học giả Đỗ Thông Minh: Thực ra mình ở hải ngoại thì bàn thờ gia tiên không đến như vậy đâu, nhưng nhà mình có thờ ông cụ bà cụ chút xíu, tết có làm cái mâm chút xíu. Mà cộng đồng mình bên đây nhỏ lắm, có tổ chức Tết ta nhưng mà năm nay lại rơi vào thứ ba, không được nghỉ nên không làm lớn được.
Lâu rồi không có những hội Tết tưng bừng như ở Mỹ, mà chỉ có những nhóm nhỏ tụ tập tại nhà thôi. Rồi nó cũng trôi qua âm thầm, một ngày như mọi ngày.
Kính Hòa RFA: Rất cám ơn học giả Đỗ Thông Minh đã góp lời cho mùa xuân năm nay, kính chúc ông một năm mới, dù ở trên đất Nhật vẫn có một không khí tết như ở Việt Nam vậy.
Ông Nguyễn Gia Kiểng từng làm Phụ tá Bộ trưởng Kinh tế
thuộc chế độ Việt Nam Cộng Hòa
và phụ trách một số lĩnh vực cố vấn về kinh tế và kỹ thuật
Ngồi trong khu vườn của một ngôi nhà mang kiến trúc khá đặc trưng Pháp ở vùng Lognes, ngoại ô thuộc mạn Đông Paris, tác giả của biên khảo “Tổ Quốc Ăn năn” được biết đến từ vài chục năm trước chia sẻ với BBC về cuộc đời mình.
Ông Kiểng kể câu chuyện ông du học, về lại Việt Nam, đi “học tập cải tạo” sau 30/4/1975, trở thành chuyên gia trong chế độ mới, rồi lại rời Việt Nam sang Pháp từ đó đến nay ra sao.
Kỹ sư Nguyễn Gia Kiểng kể: “Tôi sang Pháp hai lần, lần đầu tiên là năm 1961. Sau khi học xong trung học, tôi được học bổng du học tại Pháp. Tôi du học sau sáu năm thì tốt nghiệp. Rồi tôi ở lại làm việc vì tôi nghĩ rằng mới ra trường thì không thể nào có kinh nghiệm được.
“Điều quan trọng là không phải học để tốt nghiệp lấy bằng cấp, mà là làm việc, tiếp xúc với người phương Tây, biết cách làm việc của họ. Cho nên tôi có làm việc, ở lại Pháp sáu năm. Tôi về Việt Nam phục vụ từ năm 1973.
“Lúc đầu tôi làm việc ở ngân hàng. Mới đầu, chúng tôi được quản lý một quỹ đầu tư. Sau đó tôi có sang bên Bộ Kinh tế, Việt Nam Cộng Hòa và làm Phụ tá Bộ trưởng Kinh tế cho đến ngày 30/4/1975.
“Sau đó cũng như số phận của các viên chức miền Nam, tôi có bị đi gọi là tập trung cải tạo” trong vòng ba năm rưỡi, rồi tôi ra và có làm chuyên gia dưới chế độ Cộng sản trong một thời gian. Cho tới năm 1982 thì tôi được chính quyền Pháp can thiệp cho và tôi được sang Pháp từ cuối năm 1982. Tôi hành nghề kỹ sư, tôi về hưu cách đây 10 năm.”
Hồi cố điều nổi bật sau những năm tháng đã qua, ông Nguyễn Gia Kiểng nói:
“Số phận của mình đều do những yếu tố bất ngờ hết. Khi phe Cộng sản chiến thắng ngày 30/4 đó, thì tôi là một Phụ tá Bộ trưởng, cấp bậc tương đương với một Thứ trưởng. Thì dĩ nhiên cấp bậc thấp hơn người ta đã phải đi học tập cải tạo rồi.
“Tôi không trình diện để đi học tập cải tạo và tôi tìm cách trốn khỏi Việt Nam, nhưng mà tôi bị bắt ở trở lại Việt Nam, do đó tội của tôi tương đối nặng hơn. Tôi có bị bắt giam hơn ba năm. Trước khi được làm hồ sơ để chuyển sang diện học tập bình thường, thì vào lúc đó họ lại nhận ra một điều.
“Đó là ở miền Nam lúc đó có những máy điện toán và là máy IBM. Trước đó, họ không biết chúng dùng vào việc gì nhưng sau đó họ thấy rằng các cố vấn Nga nói rằng những chiếc máy này rất cần thiết, thành ra họ có đi tìm.
GETTY IMAGES
Miền Nam Việt Nam đã từng trải nghiệm một mức độ phát triển nhất định
về kinh tế, kỹ thuật và thị trường ở khu vực
dưới thời Việt Nam Cộng Hòa
“Lúc tôi được ra học tập, ra khỏi trại, tôi mới biết rằng có những văn kiện tìm kiếm tôi, vì hồi đó tôi có là Trưởng ban Điện toán của Bộ Kinh tế. Tôi là Phụ tá Bộ trưởng, nhưng tôi lại là chủ tịch ba ủy ban là ủy ban điện tin học, ủy ban thuế khóa và ủy ban kế hoạch.
“Có lẽ họ nhìn thấy rằng tôi có khả năng về tin học, hơn nữa hiểu về những máy điện toán rất nhiều, thành ra họ trả tự do cho tôi và biến tôi trở thành một chuyên viên của chế độ.”
Hợp tác vì ai, cái gì?
Kỹ sư, nhà biên khảo kể lại rằng lúc đầu ông cũng bị theo dõi, nhưng ông đã luôn tỏ ra nói thẳng, nói thật và chỉ mong muốn đóng góp, hợp tác phục vụ cho đất nước, dân tộc, ông Nguyễn Gia Kiểng nói tiếp:
“Mới đầu họ theo dõi, nhưng về sau họ thấy tôi nói thực, nói thẳng. Phải nói vào ngày 30/4 tôi đã chấp nhận thua trận và tôi cũng không ra đi vì tôi nghĩ rằng một dân tộc có lúc phải tranh đấu với nhau, có thể va chạm, nhưng một dân tộc không thể cứ tiếp tục nội chiến, cứ xung đột tới cùng thì không còn là dân tộc.
“Cho nên lúc đó tôi đã chấp nhận để đóng góp với tư cách là một người thua trận, tức là một người đem khả năng khoa học kỹ thuật mà mình biết để góp phần đóng góp cho đất nước một phần nào hay phần đó. Nên khi tôi ra khỏi chỗ học tập, nhân tiện tôi xin kể một chuyện, tôi gặp một ông cựu Bộ trưởng của Chính phủ Lâm thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam của phe cộng sản. Đó là ông Trương Như Tảng.
“Lúc đó ông ấy bất mãn và ông là giám đốc một công ty, tôi lúc đó làm trong Ban kỹ thuật của Thành phố. Ông đó muốn đóng cửa một nhà máy. Nhưng lúc đó tôi ở ban kỹ thuật của thành phố, tôi không đồng ý.
“Ông hỏi tôi tại sao anh là một người chế độ cũ, tại sao anh lại ủng hộ chế độ mới như vậy, mà anh lại không đồng lòng đóng cửa luôn công ty đó đi? Chế độ này đâu có phục vụ gì ai?
“Tôi nói: tôi là một kỹ sư. Một kỹ sư mà nhìn thấy một nhà máy có vấn đề, gặp khó khăn, thì cũng giống như là một bác sỹ nhìn thấy một bệnh nhân. Bổn phận bác sỹ nhìn thấy một bệnh nhân là chữa, bổn phận của một người kỹ sư có lương tâm nghề nghiệp của mình là phải tìm cách cứu nhà máy đó. Nhà máy này tôi thấy có thể cứu được, thì tôi thấy là không đồng ý để ông đóng cửa.”
Chia sẻ con đường từ quyết định “hợp tác” đó, rồi ra nước ngoài trở lại và trở thành nhà biên khảo mà cuốn sách “Tổ Quốc Ăn năn” là một trong các tác phẩm, kỹ sư Nguyễn Gia Kiểng nói:
Ông Nguyễn Gia Kiểng từng là chuyên gia về tin học
và có thời gian làm việc dưới chế độ mới ở miền Nam Việt Nam sau 30/4/1975
“Phải nói rằng chữ hợp tác đó không phải là tôi hợp tác với chế độ, chủ nghĩa cộng sản là điều tôi đã phản bác từ thời thanh niên, cách quản lý đất nước của họ, cách phân biệt đối xử. Sự thực theo tôi cuộc nội chiến vẫn tiếp tục sau ngày 30/4, chỉ có điều là cuộc nội chiến đơn phương, một bên có bạo lực và một bên không có. Sau ngày 30/4 không có “hòa bình” trong dân tộc.
“Vẫn có những người thắng trận “đầy đọa” những người thua trận, cho nên về chế độ thì tôi hoàn toàn không hợp tác, tôi hợp tác với đất nước Việt Nam, tôi làm những gì mà tôi có thể làm cho đất nước Việt Nam trong hoàn cảnh của một người không thể làm gì khác. Tôi là người Việt Nam và lúc nào tôi cũng muốn phục vụ, trong tất cả mọi hoàn cảnh, tôi phục vụ đất nước Việt Nam, tôi hợp tác với đất nước Việt Nam, nhưng không phải là tôi hợp tác với chế độ.
“Sau đó, vai trò của tôi cũng không còn, dầu sao đặc tính của chế độ cộng sản như mọi người cũng biết, họ rất là nghi kỵ, họ vẫn nhìn chúng tôi như là kẻ thù, những người nào không thuộc đảng của họ, thì họ không thể duy trì ở một chức vụ cao, như là một chuyên viên, chuyên gia cao cấp được, cho nên vẫn có sự theo dõi, vẫn có sự nghi kỵ, mặc dù chúng tôi không làm gì cả.”
Dám “bắt Tổ Quốc ăn năn”?
Về lý do viết cuốn biên khảo “Tổ Quốc Ăn năn” và cách hiểu thế nào là Tổ Quốc, tác giả Nguyễn Gia Kiểng chia sẻ:
“Cho đến lúc tôi được chính quyền Pháp can thiệp thì tôi sang bên này. Cùng với một số anh em, chúng tôi đã lập ra một Tập hợp Dân chủ đa nguyên và chúng tôi chia sẻ với nhau là một dân tộc sau một cuộc nội chiến, cũng giống như một cặp vợ chồng, một gia đình sau một cuộc xung đột lớn, chúng ta chỉ có hai chọn lựa thôi: một là chúng ta hòa giải để cuộc sống chung tiếp tục, hai là chúng ta không chấp nhận hòa giải và chấp nhận tan vỡ.
“Không chấp nhận hòa giải sau một cuộc nội chiến tương đương với việc để quốc gia tan vỡ, nhiều người không biết điều đó. Cho nên trong tinh thần đó, để nói lên tinh thần đó, tôi có viết cuốn Tổ Quốc Ăn năn, tôi đặt ra câu hỏi Tổ Quốc là ai? Theo định nghĩa của tôi, Tổ Quốc là mọi người Việt Nam, người Việt Nam phải nghĩ lại. Tôi nghĩ như thế.
“Tức là mọi người Việt Nam đều phải nghĩ rằng họ đã có một cái lỗi gì đó, mình phải ăn năn, mình phải xét lại cách ứng xử của mình đối với đất nước, nhiều người cứ nói là tôi coi thường Tổ Quốc, bắt Tổ Quốc phải ăn năn. Họ nghĩ rằng Tổ Quốc là thiêng liêng.
“Tôi không nghĩ như thế, tôi nghĩ Tổ Quốc là bạn với tôi, là con tôi, là cha tôi, là tổ tiên tôi, là những người thành công, cũng như những người thất bại – là tất cả chúng ta trong suốt dòng lịch sử. Đó là Tổ Quốc!
Tác giả Nguyễn Gia Kiểng
bên một số cuốn sách mà ông viết hoặc tham gia
“Đáng lẽ chúng ta yêu nước trước hết là yêu đồng bào. Chúng ta phải thể hiện lòng yêu nước đó bằng cách yêu quý, khoan dung với người đồng bào của chúng ta. Trái lại trong dòng lịch sử, chúng ta nhân danh Tổ Quốc để “giết người” chống chúng ta, chúng ta nhân danh Tổ Quốc để “buộc tội”, để “bỏ tù”, có khi để xử tử tội phản quốc. Nhưng chúng ta không nhân danh Tổ Quốc để mà tha thứ, để mà hàn gắn với nhau, để quý trọng nhau.
“Theo tôi từ nay trở đi nếu có một điều chúng ta phải suy nghĩ lại, nhân tiện nói về Tổ Quốc, tôi nghĩ rằng chúng ta phải quan niệm Tổ Quốc là một tình yêu trước hết, chứ không phải là một sự thù hận.”
Viết gì cho một chương mới?
Vài chục năm trước, sau khi trở lại Pháp, ông Nguyễn Gia Kiểng đã hoàn tất và cho công bố cuốn biên khảo luận thảo luận về chính trị với tựa đề “Tổ Quốc Ăn năn”, khi được hỏi là nếu hiện nay muốn viết thêm một Chương bổ sung hay tiếp nối cho cuốn biên khảo, thì sẽ viết gì, tác giả nói:
“Tôi sẽ viết về những cơ hội đã bỏ lỡ. Tôi nghĩ rằng chúng ta đã có những cơ hội mà chúng ta đã bỏ lỡ. Cơ hội thứ nhất là sau Đại hội IV của Đảng Cộng sản Việt Nam với chương trình rất hoành tráng, rồi nó hoàn toàn thất bại, không thực hiện được bất cứ một phần nhỏ nào, trong bất cứ mục tiêu nào.
“Thời gian đó đáng lẽ đã phải là một thời gian nghĩ lại. Nghĩ lại trước hết là những người lãnh đạo ở chế độ Cộng sản phải nghĩ lại, những ông như là Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, ông Phạm Văn Đồng, Phạm Hùng, những người đó, hay ông Lê Đức Anh v.v…, những người đó phải nghĩ lại.
“Nhưng phần còn lại, những người thuộc phe thua trận như chúng tôi cũng phải giúp họ nghĩ lại. Bằng một thái độ nói: thôi, những chuyện gì đã qua, chúng tôi cũng bằng lòng bỏ qua. Các ông không sợ gì cả nếu như các ông thay đổi, nếu các ông thực hiện đường lối hòa giải dân tộc, thực sự thì có chúng tôi.
“Chúng tôi biết các ông có lỗi, chúng tôi cũng có phần có lỗi, nhưng chúng ta nên nhìn về tương lai hơn là về quá khứ. Tôi nghĩ đó là vào thời điểm 1980 khi chương trình hoành tráng của Đại hội IV thất bại.
“Tôi đã làm việc trong chế độ, tôi biết là có những hoang mang, có nhiều người biết là chủ nghĩa này không thành công, có nhiều biết là chế độ này thất bại, họ muốn nghĩ lại, nhưng một phần họ không đủ can đảm nghĩ lại và một phần vì điều kiện xã hội cũng làm cho họ không dám nghĩ lại.
“Lần thứ hai tôi nghĩ là một cơ hội rất là lớn cho nhiều dân tộc, như là các dân tộc ở Đông Âu, hay cả một nước ở châu Á tôi nghĩ đến là nước Mông Cổ, Ngoại Mông, là khi mà bức tường Berlin sụp đổ. Đáng lẽ lúc đó chúng ta sẽ gạt tất cả những ưu tư về chủ nghĩa, chúng ta hãy nhìn nhau hãy nhìn là anh em, hãy nhận lại bạn bè. Đó là một cơ hội rất lớn.
“Thế nhưng mà ở trong nước có những người lại nghĩ rằng phải kiên trì, không còn Đảng thì không còn mình, họ nghĩ rằng sau những gì họ đã làm với người khác, những người khác sẽ không tha thứ cho họ, cái đó ở trong cộng đồng người Việt ở hải ngoại và một phần những dư luận ở miền Nam lại cho rằng đây là một cơ hội để ‘dứt điểm chế độ’ và có thể để ‘trừng phạt’ những ‘tội ác cộng sản’ chẳng hạn.
“Cuối cùng là những người cộng sản tuy rằng họ ở trong thế lúng túng, có thể nói là khi bức tường Berlin sụp đổ thì như ‘trời sập’ trên đầu họ, nhưng họ là lực lượng duy nhất và họ vẫn trụ được. Và chúng ta bỏ lỡ một cơ hội.”
Sắp bỏ lỡ thêm một cơ hội?
Ông Nguyễn Gia Kiểng (phải) đang sống tại Lognes, thuộc ngoại ô mạn Đông Paris, Pháp
“Ngày hôm nay, chúng ta đang sắp sửa bỏ lỡ một cơ hội, tại vì Đại hội vừa qua của Đảng Cộng sản, tôi nghĩ rằng có một sự rập khuôn theo công thức của Trung Quốc, tức là cũng nhất thể hóa, cũng tập trung quyền lực vào một người, rồi cũng đặt trọng tâm vào vấn đề chống tham nhũng.
“Những điều đó theo tôi không có tác dụng, bởi vì nếu chúng ta thực sự muốn chống tham nhũng, phải hiểu bản chất của tham nhũng. Chúng ta phải hiểu đó là một vấn đề có tính cách đạo đức. Tham nhũng định nghĩa của nó là một vi phạm đạo đức bằng cách sử dụng công quyền cho lợi ích cá nhân, bản chất của nó là như thế.
“Như vậy nếu chúng ta duy trì chế độ độc tài có quá nhiều quyền lực dồn vào quá nhiều dồn vào một đảng, chúng ta không thể chống được tham nhũng, bởi vì chừng nào có quyền lực, chúng ta đều hiểu là vẫn còn tham nhũng. Đó là vấn đề nguyên tắc, nhưng thực tế cũng cho ta biết là đạo đức là những gì chúng ta chỉ có thể làm gương, chứ chúng ta không thể thuyết phục được.
“Cho nên như mọi vấn đề đạo đức, tham nhũng khi đã đạt tới một mức độ nào đó thì nó không thể sửa chữa được nữa. Ở một mức độ nào đó, người ta không thể cải tổ được một chính quyền tham nhũng để nó hết tham nhũng, mà người ta chỉ có thể thay thế một chính quyền tham nhũng bằng một chính quyền khác.
“Hiện nay, đáng lẽ ra – tôi nghĩ một chính quyền khác không nhất thiết phải là chính quyền ‘chống cộng’, không nhất thiết phải là chính quyền hoàn toàn độc lập với Đảng Cộng sản, cũng có thể có những người Cộng sản ở trong đó. Thì đây là một cơ hội mà tôi nghĩ rằng vào lúc này chúng ta đang sắp có một cơ hội. Cơ hội đó đến bởi vì công thức, mô hình gọi là Kinh tế thị trường định hướng Xã hội Chủ nghĩa đã đến ‘giai đoạn chót’, đằng nào nó cũng sẽ bị ‘đào thải’.
“Trung Quốc (kể cả Việt Nam) đang gặp những khó khăn… không phải chỉ là do Donald Trump gây cuộc chiến tranh thương mại đâu, mà bởi vì các quốc gia – dù các quốc gia phương Tây, các nước dân chủ giàu mạnh ở một mức độ nào đó – trong cuốn Dự án Chính trị của chúng tôi “Khai sáng Kỷ nguyên thứ hai” – chúng tôi đã nói rõ là bắt buộc phương Tây, Hoa Kỳ và các nước Âu Châu, phải xét lại sau một thời gian họ chấp nhận thâm thủng mậu dịch, dù là Donald Trump, hay không phải Donald Trump, cũng bắt buộc phải thăng bằng mậu dịch.
“Và thời đại vàng son [đã hết], giai đoạn ân huệ của chính sách Kinh tế thị trường định hướng Xã hội Chủ nghĩa – mà về bản chất là xuất khẩu thật nhiều, với giá thật rẻ để xuất khẩu tối đa – có nghĩa là Trung Quốc cũng như Việt Nam xuất khẩu ‘sự nghèo khổ’ mà chính họ là tác giả. Tôi nghĩ mô hình đó dù có ‘Donald Trump’ hay không cũng chấm dứt và chúng ta sắp phải xét lại toàn diện.
“Tôi nghĩ vào giờ này là những người Việt Nam, nếu chúng ta quan tâm tương lai của đất nước mình, thì đây chính là lúc chúng ta nhìn nhau với một con mắt thân thiện hơn để cùng nhau tìm một giải pháp cho đất nước, để đừng làm lỡ thêm một cơ hội nữa. Và tôi nghĩ rằng, tôi hơi bi quan, bởi vì tôi thấy rằng trong thời gian vừa qua, chính quyền đã hành động ngược với nhu cầu và tình thế. Tức là thay vì có một thái độ khoan dung hơn để tìm một giải đáp chung cho tất cả đất nước, thì lại có những bản án rất thô bạo.
“Tôi nghĩ rằng chính quyền này họ không hiểu rằng cả mô hình Kinh tế thị trường định hướng Xã hội Chủ nghĩa đang bế tắc,” ông Nguyễn Gia Kiểng nói với BBC từ nhà riêng tại Lognes, ngoại vi Paris, Pháp.
Ông Nguyễn Gia Kiểng, hiện sinh sống tại Pháp, là một nhà hoạt động, thành viên sáng lập của tổ chức Tập Hợp Dân chủ Đa nguyên, từng đi ‘học tập cải tạo’ sau biến cố 30/4/1975 ở miền Nam Việt Nam. Chia sẻ của ông nằm trong loạt bài thuộc chuyên mục ‘Người Việt toàn cầu’ của BBC Tiếng Việt.
Giáo viên Hồi giáo mừng Tết Âm lịch tại Kuala Lumpur, Malaysia
Các cộng đồng khắp nơi trên thế giới đang chuẩn bị chào mừng Tết âm lịch, lần này là năm Hợi.
Lễ mừng năm mới âm lịch thường có nghĩa là hình ảnh con vật đại diện cho năm đó được trưng bày ở khắp mọi nơi – như món trang trí, đồ chơi, quà tặng và quảng cáo.
Nhưng con lợn, con vật cuối cùng trong lịch hoàng đạo Trung Quốc, là gia súc bị người Hồi giáo coi là ô uế và việc ăn thịt lợn là một tội lỗi.
Vậy thì, điều này có gây ra vấn đề cho những người ăn Tết năm Hợi ở các quốc gia có nhiều người Hồi giáo ở Đông Nam Á không?
Giống như hầu hết các gia đình người Malaysia gốc Hoa, chuẩn bị đón Tết âm lịch là công việc hệ trọng đối với gia đình Chow, người sống ở thị trấn buồn hiu của Batu Pahat ở Johor, Malaysia.
Năm nay đặc biệt quan trọng bởi vì Chow Yoon Kee, vợ Stella và con gái của họ đều sinh ra trong những năm cầm tinh con lợn.
“Chúng tôi sẽ trưng bày rất nhiều đồ trang trí lợn ở nhà và tất nhiên, người thân, bạn bè, công nhân và hàng xóm của chúng tôi sẽ đến thăm, bất kể chủng tộc hay tôn giáo nào. Ăn Tết dành cho tất cả, “ông Chow, một quản lý sàn tại một nhà máy sản xuất bánh quy địa phương cho biết.
Chính quyền Malaysia thận trọng với việc bài trí mừng Tết Âm lịch
Ông Chow không lo lắng về việc ăn Tết của mình xúc phạm những người xung quanh vì ông tin rằng không thấy có dấu hiệu tranh cãi về năm mới.
“Năm ngoái có rất nhiều sự ồn ào,” ông nhớ lại, khi đó là năm con chó, cũng được xem là một động vật không trong sạch của một số người Hồi giáo.
Malaysia là một quốc gia đa văn hóa nhưng tôn giáo chính thức là Hồi giáo, và ngày càng có nhiều tin tức về sự không khoan dung đối với các sinh hoạt và hành động được coi là xúc phạm người Hồi giáo.
Vì vậy, nhiều cửa hàng và thương nhân tránh sử dụng hình ảnh của những con chó vì sợ làm mất lòng cộng đồng Hồi giáo.
Nhưng ông Chow cảm thấy làm như thế là chính quyền địa phương đã bỏ qua cảm xúc của cộng đồng Trung Quốc, những người thực sự ăn mừng ngày lễ.
Malaysia là một quốc gia đa văn hóa nhưng tôn giáo chính thức là Hồi giáo, và ngày càng có nhiều tin tức về sự không khoan dung với các sinh hoạt và hành động được coi là xúc phạm người Hồi giáo.
“Malaysia là một đất nước được tạo thành từ nhiều chủng tộc, không chỉ là người Hồi giáo Malay. Malaysia cũng có cộng đồng người Trung Quốc và Ấn Độ, cũng như các tôn giáo khác như Kitô giáo, Ấn Độ giáo, Đạo giáo và Phật giáo vì vậy chúng ta nên tôn trọng tín ngưỡng và lễ kỷ niệm của nhau. ”
Trang hoàng Tết tại Chinatown, Singapore
Nhưng ông nói thêm rằng “tinh thần kiểm duyệt” dường như không tiếp tục vào năm con lợn.
Mỗi động vật thuộc cung hoàng đạo Trung Quốc được cho là có những đặc điểm và phẩm chất riêng. Những người sinh năm con lợn được cho là thông minh, nhân ái và trung thành.
“Hoàn toàn không có lý do gì để lo lắng”, Joey Yap, một cố vấn phong thủy có trụ sở tại Kuala Lumpur nói.
Ông Yap nói với BBC rằng dường như không có bất kỳ sự nhạy cảm nào xung quanh các lễ kỷ niệm ở Malaysia trong năm nay, so với năm trước.
Bài trí ở Chinatown của Jakarta
“Lợn sẽ không sao cả”, ông nói và thêm rằng việc bạn có chưng bầy hình ảnh con vật đại diện cho năm sinh của mình hay không “không ảnh hưởng đến vận may cá nhân”.
“Màu sắc, biểu tượng; tất cả những thứ này đều không quan trọng. Trong thực tế, vận may của một người tùy thuộc vào hành động của mình, vì vậy hãy nắm lấy sự tích cực, “ông nói.
‘Những con lợn đầu tiên người Hồi giáo có thể ăn’
Mặc dù đó là quốc gia Hồi giáo đông dân nhất thế giới, Tết âm lịch là một ngày lễ quốc gia ở Indonesia. Việc mừng Tết công cộng được chấp nhận rộng rãi – đèn lồng, những cuộc diễu hành đầy màu sắc và biểu diễn thường thấy ở nhiều thành phố.
Merry Olivia ở Jakarta cho biết những người bạn Hồi giáo của bà hoan nghênh hình ảnh những con lợn.
Bánh đặc biệt cho khách hàng Hồi giáo
“Tôi lớn lên với nhiều người Hồi giáo Indonesia nên tôi biết lợn sẽ không khiến họ cảm thấy khó chịu”, bà nói và cho biết con lợn trông “lễ hội” hơn các động vật khác trong hoàng đạo.
“Nếu bạn so sánh lợn với rắn, chẳng hạn, lợn đáng yêu hơn nên,mọi người thích mua đồ trang trí được tô điểm với lợn hơn. Ở Jakarta không nhiều người thích rắn.”
Lò bánh ngọt Valeria Rita tung ra những món ăn đặc biệt kịp thời cho dịp Tết: bánh quy hình con lợn với nhân mứt dứa ngọt.
Bà Rita nói rằng những món này được mọi người đón nhận. “Cam hay quýt là biểu tượng phổ biến cho Tết âm lịch. Năm nay, chúng tôi quyết định tạo ra các món bánh hình con lợn và số lượng dự trù cho các đơn đặt hàng trước đã đầy trong vòng hai tuần. ”
Nhiều khách hàng của bà cũng là người Hồi giáo.
“Họ mua bánh quy của tôi cho đồng nghiệp và bạn bè người Trung Quốc mừng Tết. Một số người cũng mua bánh cho gia đình vì họ thích những con lợn,” bà nói, chia sẻ một câu nói đùa của người bạn thân nhất, cũng là một người Hồi giáo. “Bánh qui của tôi là những con lợn đầu tiên người Hồi giáo được phép ăn.”
‘Tôi không muốn làm mích lòng’
Nhưng với Rangga Sastrajaya, 24 tuổi, từ thành phố Bogor, thì đó là một tình huống khác.
Sastrajaya mua đồ chơi và những món trang trí lợn nhưng vẫn thận trọng khi trưng bày chúng một cách công khai vì ông cảm thấy nhiều người Indonesia vẫn không chấp nhận sự đa dạng của văn hóa.
“Tôi có thể mặc áo sơ mi in hình lợn hoặc trưng bày đồ trang trí theo chủ đề lợn ở nhà nhưng tôi sẽ rất cẩn thận khi khoe chúng ở nơi công cộng vì tôi không muốn làm mất lòng ai”, Sastrajaya thừa nhận.
Nhưng có nhiều người lên án các lễ hội Tết.
Diễn đàn Muslim Bogor (FMB), một tổ chức Hồi giáo bảo thủ ở Tây Java, đã công bố một lá thư yêu cầu hủy bỏ các lễ hội dịp Tết. Họ nói rằng những sinh hoạt này “không phù hợp” với người Hồi giáo vì có thể “phá hoại đức tin Hồi giáo”.
Thành viên của diễn đàn này làm theo các nhóm khác như Pemuda Pancasila (PP) và Diễn đàn người Malaysia Malat Komunikasi Pemuda Melayu (PFKPM), người trước đây đã lên án các sinh hoạt Tết của các cộng đồng Trung Quốc.
Năm 2017, thống đốc Jakarta Basuki Tjahaja Purnama đi tù vì tội báng bổ đạo Hồi
Nhà phân tích Thung Ju-Lan từ Viện Khoa học Indonesia coi phản ứng đó là “tác động của thái độ không khoan dung và chính trị”, giống như những hành động đã làm rung chuyển Jakarta hai năm trước.
Các cuộc biểu tình chống cựu thống đốc Basuki “Ahok” Tjahaja Purnama, một Kitô hữu gốc Trung Quốc, đã rầm rộ diễn ra. Ông Purnama bị kết tội phạm thượng tại một phiên tòa được coi là một thử nghiệm về sự khoan dung tôn giáo của Indonesia.
“Đó là tác động của cuộc bầu cử thống đốc ở Jakarta, trong trường hợp của Ahok. Những cảm nhận tương tự đã lan rộng,” Bà Ju-Lan nói với BBC.
“Vấn đề không dung nạp vẫn đang tiếp tục bởi vì chúng ta có những hiểu biết hạn hẹp về những gì đang thực sự xảy ra. “Càng thiếu hiểu biết, con người càng không khoan dung. ”
Việc Tết âm lịch bị nhiều người Hồi giáo Indonesia cho là một sinh hoạt “tôn giáo hơn là văn hóa”.
Nhưng một chính trị gia đã lên tiếng bảo vệ cộng đồng Trung Quốc. Bộ trưởng Tôn giáo Lukman Hakim Saifuddin khuyến khích việc tôn trọng niềm tin của mọi người từ các nền văn hóa, tín ngưỡng và truyền thống khác nhau.
“Bất kể mọi người hiểu gì về việc ăn Tết, tôi mời gọi tất cả tôn trọng truyền thống,” ông nói.
—
Bài viết của Heather Chen, BBC News tại Singapore và Christine Franciska cùng Ayomi Amindoni, BBC Indonesia tại Jakarta.
Khi chúng tôi gần đến bảo tàng cách mạng ở Bến Tre, một tòa nhà cổ thời thuộc địa Pháp, tôi có cảm giác quen thuộc kỳ lạ. Tôi nhận ra mình đã đến đây, từ lâu lắm.
Cùng một vài người thân, tôi đến Bến Tre vì nghe nói một phần bảo tàng dành trưng bày về chú tôi, Phạm Ngọc Thảo, còn được gọi là Albert, cựu đại tá quân đội miền Nam Việt Nam.
Được nhiều người ngưỡng mộ vì sự nhanh trí hài hước, tự trọng, tử tế với cấp dưới, và cũng bị nhiều người nghi ngờ, danh tiếng của ông Thảo đã tăng lên từ cái chết của ông trong thời chiến. Trong một diễn biến khó tin, ông sau này còn được đảng cộng sản vinh danh vì “thành tích” chống chính quyền Sài Gòn.
Năm 1995, 30 năm sau cái chết của ông, Hà Nội công nhận ông là anh hùng lực lượng vũ trang. Thi hài của ông được đặt ở một nghĩa trang liệt sĩ, ngoại vi thành phố Hồ Chí Minh.
Theo lời của Đảng, ông đã là điệp viên kép thời chiến, phá hoại chính quyền Sài Gòn.
Thời đó, người Mỹ, trong các điện tín mật, mô tả ông Thảo là “điệp viên rành nghề và lâu năm”.
Cũng đúng thôi. Ông tham gia đảo chính 1963 lật đổ Tổng thống Ngô Đình Diệm. Chính biến này đưa đất nước vào vòng xoáy bất ổn, tình hình quân sự thì xấu đi. Hai năm sau, Tổng thống Mỹ Lyndon Johnson có quyết định gửi lục quân vào Việt Nam, mở đầu 10 năm Mỹ can thiệp quân sự dẫn tới thất bại ngoại giao tệ hại.
Trong cuộc đảo chính tổng thống Diệm, ông Thảo đã lên đài phát thanh loan báo cuộc lật đổ, và hứa hẹn dân chúng rằng họ sẽ sớm được mua gạo, nước mắm ở chợ.
Ông Thảo đã gọi điện cho ông Diệm kêu gọi tổng thống đầu hàng.
Sau năm 1963, ông Thảo lại âm mưu chống người kế nhiệm ông Diệm, tướng Nguyễn Khánh. Đảo chính 1965 thất bại vì ông Khánh kịp bay ra khỏi sân bay Tân Sơn Nhứt khi xe tăng phiến quân kéo vào.
Nhưng ông Khánh sau đó phải từ chức, được thay bằng Nguyễn Cao Kỳ và Nguyễn Văn Thiệu.
Ông Thảo bị kết án tử hình vì cuộc đảo chính chống ông Khánh. Lần này, ông hết may mắn. Ông bị bắt giữ, tra tấn tới chết. Ông chết ở tuổi 43 vào tháng Bảy 1965.
Dưới thời ông Diệm, ông Thảo không chỉ là kẻ âm mưu đảo chính. Ông còn giúp phá hoại chương trình ấp chiến lược. Chương trình này vốn mất lòng dân, nhưng ông Thảo cứ kêu gọi các tỉnh trưởng và ông Diệm tiếp tục để gia tăng bất mãn chống chế độ.
Trong thời chiến, ông Thảo có lúc ngắn ngủi từng là tỉnh trưởng Bến Tre, khi đó có tên Kiến Hóa. Chính tại đây, ông Thảo khắc sâu danh tiếng là một trong những chỉ huy giỏi nhất miền Nam khi chống Việt Cộng. Sau khi ông tới vùng này, chiến sự giảm bớt, thế là ông được cho là có công đè bẹp giặc.
Sau này người ta mới biết hóa ra ông có thỏa thuận ngầm với Việt Cộng để ra vẻ là ông đã bình định tỉnh này thành công. Câu chuyện thành công đó khiến ông được sự quan tâm của các nhà báo ảnh hưởng như Joseph Alsop và ông trùm chống nổi dậy Robert Thompson.
Chú Thảo của tôi đã từng sống trong ngôi nhà mà nay là bảo tàng ở Bến Tre.
Tôi nhớ một lần, anh trai Pierre và tôi đến thăm chú Thảo. Ông dẫn chúng tôi đi thuyền – lúc ấy chắc tôi khoảng tám tuổi.
Tôi nhớ chú hỏi anh tôi có thích ăn sầu riêng không.
Từ ban công, chú chỉ vào khu rừng.
“Việt Cộng ở đó,” ông nói.
Gần 60 năm đã qua. Hôm nay, chúng tôi đi theo một tour của nhân viên bảo tàng.
Đại tá Phạm Ngọc Thảo cùng vợ và diễn viên Sandra Dee, tại Universal Studio
Một phòng ở trên dành để trưng bày về ông Phạm Ngọc Thảo. Có bức hình ông Thảo và vợ, Phạm Thị Nhiên, cùng ngôi sao Hollywood Sandra Dee.
Lại có bức hình ông Võ Viết Thanh, người khi còn trẻ định ném lựu đạn để giết ông Thảo.
May cho ông Thảo, lựu đạn không nổ. Ông thả Thanh đi với lý do chỉ là trẻ con nóng tánh.
Ông Thanh không phải là người duy nhất bị ông Thảo lừa. Sau chiến tranh, nhiều nhà báo Mỹ nổi danh như Stanley Karnow và Robert Shaplen ngạc nhiên là họ đã bị viên đại tá miền Nam lừa phỉnh.
Trong phòng có nhiều câu trích dẫn ca ngợi ông Thảo, như của cố thủ tướng Võ Văn Kiệt.
Người hướng dẫn nói ông Kiệt xem ông Thảo là độc nhất vô nhị trong số điệp viên nhị trùng của miền Bắc, vì ông đã phá hoại chính thể miền Nam, đặc biệt qua hai cuộc đảo chính.
Lời của ông Trần Bạch Đằng. Ông Đằng sau này viết sách Ván bài lật ngửa, được cho là lấy cảm hứng từ Phạm Ngọc Thảo
Nghe nói ông Thảo chỉ báo cáo cho Lê Duẩn, tổng bí thư tương lai. Hai người có quan hệ thân thiết trong thời chống Pháp.
Nhân viên bảo tàng nói họ đang xây dựng kho tư liệu về ông Thảo và muốn liên lạc những ai biết ông.
Tôi thấy lạ vì hẳn phải có cả kho tài liệu ở Hà Nội. Ông Thảo tham gia kháng chiến chống Pháp ngay từ 1945 trước khi tham gia tình báo. Với ngần ấy năm làm cho Việt Minh, hẳn phải có nhiều tư liệu trong kho chính phủ.
Một số nhà bình luận tự hỏi vì sao phải mất ngần ấy năm Hà Nội mới công nhận ông Thảo là anh hùng.
Edward Miller từng viết trong sách Misalliance rằng ngay cả bây giờ, người ta vẫn không rõ về nghị trình thực của ông Thảo. Miller ghi nhận rằng Đảng Lao Động Việt Nam chỉ mô tả sơ sài về hoạt động điệp báo của ông Thảo, trái hẳn cách họ viết về các điệp viên cộng sản nổi danh khác.
Một thành viên gia đình thì tin rằng thái độ của ông Thảo với miền Bắc thay đổi theo thời gian, và ông trở nên thiện cảm với ông Diệm. Có những ghi chép nói rằng ông Thảo đã bỏ nhiều giờ nói chuyện với tổng thống, cố gắng cứu ông Diệm và Nhu trong đảo chính 1963. Người trong gia đình này cũng tin rằng âm mưu ám sát Thảo khi còn làm tỉnh trưởng Bến Tre thực ra là do ai đó hay phe nào đó trong đảng cộng sản thực hiện, vì ghen tị hay nghi ngờ rằng ông Thảo không còn trung thành.
Người này nói: “Ông Thảo cho rằng cần đánh Mỹ nhưng không phải là chiếm miền Nam.”
Nhưng nhiều năm sau khi ông Thảo chết, miền Bắc lại gọi ông là anh hùng.
Người trong gia đình này lại giải thích: “Giống như bóng đá, khi anh đá giỏi, đội nào cũng muốn anh gia nhập.”
Nếu thật sự là như vậy, ông Thảo sẽ không phải là người duy nhất trong hàng ngũ người miền Nam chiến đấu cho miền Bắc và rồi nghi ngờ đồng chí miền Bắc.
Hình chụp ở bảo tàng Bến Tre
Điều khiến ông Thảo trở nên hấp dẫn là việc người ta khó chỉ ra sự trung thành của ông ở đâu. Có vẻ như ông sống cuộc đời nhị trùng, không được bên nào tin tưởng. Đây cũng là số phận của Phạm Xuân Ẩn. Ông Ẩn được phong anh hùng năm 1996, nhưng sau khi chiến tranh kết thúc, mất một năm gửi đi học tuyên truyền về chủ nghĩa Marx-Lenin.
Theo Larry Berman viết trong sách Perfect Spy, ông Ẩn không phải là người hâm mộ hệ thống cộng sản.
Một người anh em của ông Phạm Ngọc Thảo, Gaston, từng là đại sứ Hà Nội ở Đông Đức, cũng chỉ trích chính sách cộng sản sau khi ông rời Việt Nam sang Pháp.
Những người biết ông Thảo, như Phạm Xuân Ẩn và Trương Như Tảng , gọi ông Thảo là người yêu nước chứ không phải dân ý thức hệ. Họ nói mục tiêu của ông là độc lập chứ không phải thanh lọc tư tưởng.
Chính ông Thảo từng nói với nhà báo Anh Denis Bloodworth: “Chín phần mười những ai gia nhập Việt Minh không phải là dân đỏ. Họ là người dân tộc như tôi, hợp tác với cộng sản để kết liễu sự độ hộ của Pháp.”
“Đây là những người Việt Nam chân chính, có thể thống nhất đất nước.”
“Những người ở phe bên kia không hề muốn thay ông chủ Pháp bằng chủ Nga Xô hay Trung Quốc. Những người phe bên này cũng không muốn thay chủ Pháp bằng Mỹ.”
Dĩ nhiên, ông Thảo nói vậy khi đang đội lốt làm đại tá Nam Việt Nam, nên có thể chúng ta cũng không nên hoàn toàn tin.
Cho đến hôm nay, ông Phạm Ngọc Thảo vẫn còn là hình tượng bí hiểm.
Mỹ cho biết đang gửi viện trợ cho Venezuela theo yêu cầu của tổng thống lâm thời Juan Guaidó.
Động thái tự xưng tổng thống lâm thời của ông Guaidó hồi tháng trước giành được sự ủng hộ nhanh chóng từ Mỹ và các nước khác nhưng đã gây ra một cuộc đấu đá quyền lực.
Tổng thống Venezuela Nicolás Maduro cáo buộc ông Guaidó mưu toan đảo chính và tìm sự ủng hộ từ các đồng minh quốc tế lớn.
Ông bác bỏ đề nghị viện trợ của Hoa Kỳ như một cái cớ để can thiệp quân sự.
Hôm 2/2, hàng ngàn người xuống đường ở thủ đô Caracas để biểu tình ủng hộ cả Tổng thống Maduro và ông Guaidó.
Ông Maduro hiện vẫn giữ được sự trợ giới của quân đội, nhưng trước cuộc biểu tình, ông Guaidó có thêm sức mạnh sau khi tướng không quân Francisco Yanez trở thành quan chức quân sự cấp cao nhất của Venezuela tuyên bố ủng hộ cho nhà lãnh đạo phe đối lập.
Ông Guaidó nói rằng ông đã tổ chức các cuộc họp bí mật với giới chức quân đội nhằm giành được sự ủng hộ để lật đổ ông Maduro và cũng liên hệ Trung Quốc, một trong những nước ủng hộ quan trọng nhất của ông Maduro.
Ông Guaidó không kiểm soát bất kỳ lãnh thổ nào ở Venezuela, vì vậy thay vào đó ông lên kế hoạch thành lập các trung tâm ở các nước láng giềng để tập hợp những người Venezuela bỏ nước ra đi.
Ông nói rằng ông muốn thành lập một liên minh quốc tế để thu thập viện trợ tại ba điểm, và gây sức ép buộc quân đội Venezuela cho liên minh tiến vào nước này.
Viết trên Twitter, Cố vấn An ninh Quốc gia Hoa Kỳ John Bolton cho biết các kế hoạch đang được tiến hành vào cuối tuần này.
Ông Maduro nói rằng phe đối lập đang định đảo chính
Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump cho biết can thiệp quân sự vào Venezuela là một lựa chọn trong bối cảnh phương Tây tăng áp lực buộc ông Nicolas Maduro phải từ chức.
Tuy nhiên, Nga lên tiếng cảnh báo “sự can thiệp mang tính phá hoại”.
Theo Reuters, Hoa Kỳ, Canada và một số nước Mỹ Latinh không thừa nhận chiến thắng của ông Maduro trong cuộc bầu cử gây tranh cãi hồi năm ngoái mà công nhận Tổng thống tự xưng Juan Guaido.
Trong một cuộc phỏng vấn với kênh CBS được phát sóng hôm 3/2, ông Trump cho biết đang cân nhắc sự can thiệp quân sự của Hoa Kỳ.
“Chắc chắn đó là một lựa chọn,” ông Trump nói và cho biết thêm rằng ông Maduro đã yêu cầu hội đàm từ nhiều tháng trước.
“Tôi đã khước từ vì chuyện đi quá xa rồi. Vì vậy, tôi nghĩ rằng quá trình này đang diễn ra.”
Chính quyền Trump tuần trước đã ban hành lệnh trừng phạt làm tê liệt đối với công ty dầu mỏ quốc doanh Venezuela PDVSA [PDVSA.UL], nguồn thu ngoại tệ chính của đất nước vốn đang thiếu thuốc men và thực phẩm.
Ông Maduro, người đứng sau nền kinh tế sụp đổ và khiến hàng triệu người Venezuela bỏ nước ra đi, vẫn nhận được sự ủng hộ của Nga, Trung Quốc và Thổ Nhĩ Kỳ, và sự trợ giúp quan trọng của quân đội.
Nga, chủ nợ lớn của Venezuela trong những năm gần đây, kêu gọi kiềm chế.
“Mục tiêu của cộng đồng quốc tế nên là giúp đỡ Venezuela chứ không phải can thiệp mang tính phá hoại từ bên ngoài,” Alexander Shchetinin, trưởng bộ phận Mỹ Latin của Bộ Ngoại giao Nga nói với Interfax.
Pháp và Áo cho biết họ sẽ công nhận Guaido nếu ông Maduro không phản hồi lời kêu gọi của Liên minh châu Âu vào đêm 3/2 về cuộc bầu cử tổng thống tự do và công bằng.
“Chúng tôi không chấp nhận tối hậu thư từ bất kỳ ai,” ông Maduro nói trong cuộc phỏng vấn với kênh truyền hình tiếng Tây Ban Nha Antena 3 được phát sóng hôm 3/2.
“Tôi từ chối kêu gọi bầu cử ngay bây giờ – sẽ có cuộc bầu cử vào năm 2024. Chúng tôi không quan tâm đến những gì châu Âu nói.”
Trước đó, Tổng thống Venezuela Nicolas Maduro đề xuất bầu cử Quốc hội sớm, tìm cách củng cố sự cai trị của ông sau khi một vị tướng đi theo phe đối lập và hàng vạn người xuống đường phản đối chính phủ.
Theo Reuters, khi áp lực trong nước và quốc tế buộc ông Maduro phải từ chức, một vị tướng không quân tuyên bố từ bỏ ông Maduro trong một video, bày tỏ lòng trung thành với người đứng đầu Quốc hội và là tổng thống lâm thời Juan Guaidó.
Sự trợ giúp của quân đội rất quan trọng đối với ông Maduro, người vốn không được lòng dân, phần lớn là do một cuộc khủng hoảng kinh tế chưa từng có khiến hàng triệu người dân phải rời bỏ đất nước. Maduro tuyên bố ông là nạn nhân của cuộc đảo chính do Hoa Kỳ chỉ đạo.
Trong bài phát biểu trước những người ủng hộ, ông Maduro cho biết, Quốc hội Lập hiến do chính phủ kiểm soát sẽ tranh luận về việc kêu gọi bầu cử Quốc hội trong năm nay.
Tổng thống Venezuela Nicolas Maduro dự một cuộc diễn tập ở Caracas, Venezuela ngày 1/2
Ông Guaidó kêu gọi tổ chức cuộc bầu cử tổng thống mới, công bằng sau cuộc bầu cử gây tranh cãi mà ông Maduro thắng cử.
“Quý vị muốn bầu cử sớm? Chúng tôi sắp có cuộc bầu cử Quốc hội,” ông Maduro nói trong cuộc tuần hành ủng hộ chính phủ ở Caracas. Sự kiện được tổ chức để kỷ niệm 20 năm cố lãnh đạo xã hội chủ nghĩa Hugo Chavez nhậm chức tổng thống.
Thông cáo của nghị sĩ đối lập Armando Armas viết rằng đề xuất đưa ra cuộc bầu cử Quốc hội dự kiến vào năm 2020 chỉ là thêm một hành động khiêu khích.
Ông Guaidó kêu gọi những người ủng hộ tiếp tục biểu tình
Tổng thống tạm thời Juan Guaidó của Venezuela kêu gọi hàng chục ngàn người ủng hộ tụ tập biểu tình trên toàn quốc.
Các cuộc biểu tình ngày thứ Bảy 2/2 được tổ chức nhằm tăng sức ép lên Tổng thống Nicolás Maduro buộc ông từ chức và tổ chức một cuộc bầu cử tổng thống sớm.
Ông Guaido tự tuyên bố mình là tổng thống tháng trước và ngay lập tức được Mỹ và vài nước Mỹ-Latinh công nhận.
Nga và Trung Quốc ủng hộ Tổng thống Maduro.
Nhiều nước châu Âu ra thời hạn cho Tổng thống Maduro phải tuyên bố cuộc bầu cử mới trước Chủ nhật này. Nếu ông không đáp ứng, họ sẽ cùng các quốc gia khác công nhận ông Guaidó là tổng thống tạm thời của Venezuela.
Sự ủng hộ của quân đội được coi là chủ chốt cho khả năng tiếp tục nắm quyền của ông Maduro.
Tướng Francisco Yanez, người phụ trách kế hoạch chiến lược không quân, kêu gọi các thành viên khác trong quân đội cùng bỏ quân đội với ông. Hiện chưa rõ video này được quay ở đâu và khi nào.
Đáp lại, chỉ huy trưởng Lực lượng Không quân cáo buộc ông đã phản quốc.
Trong khi đó, ông Guaidó cho biết ông đã có các cuộc gặp bí mật với phía quân đội để dành sự ủng hộ của họ nhằm lật đổ ông Maduro.
Ông nói ông đã gặp Trung Quốc để hy vọng cải thiện quan hệ với nước này.
Trong phát biểu được tờ South China Morning Post đăng hôm thứ Bảy, ông Guaidó nói ông muốn có một mối quan hệ “có hiệu quả và hai bên cùng có lợi” với Trung Quốc. Ông nói thêm rằng ông đã sẵn sàng tham gia đàm phán “sớm nhất có thể”.
Cũng trong ngày thứ Bảy, Tổng thống Maduro dự kiến sẽ tham dự một cuộc mít tinh để tưởng niệm người tiền nhiệm của ông, cố tổng thống và đại tướng quân đội Hugo Chavez.
Cho tới giờ, quân đội ủng hộ Tổng thống Maduro
Ông Guaidó đã nói gì?
Trong bài phát biểu tại Đại học Trung ương của Venezuela hồi đầu tuần, ông Guaidó kêu gọi mọi người xuống đường phản đối việc Tổng thống Maduro từ chối chuyển giao quyền lực.
“Hãy tiếp tục biểu tình,” ông nói trước đám đông sinh viên, bác sỹ và y tá, “Hãy tiếp tục xuống đường.”
Ông Guaidó cũng kêu gọi người dân Venezuela tập trung để tham gia các cuộc biểu tình mới yêu cầu “viện trợ nhân đạo”, trong đó có thực phẩm và thuốc men, phải được trao tới những người dân đang sống cơ cực trong khủng hoảng.
Hôm thứ Tư, hàng ngàn người ủng hộ ông Guaidó xuống đường ở thủ đô Caracas và vài thành phố khác trên khắp Venezuela. Họ kêu gọi quân đội ngừng ủng hộ Tổng thống Maduro và cho phép đưa viện trợ nhân đạo vào nước này.
Ông Guaidó, người đứng đầu Quốc hội Venezuela, nói hiến pháp cho phép ông được nắm quyền tạm thời khi tổng thống được coi là bất hợp pháp.
Vậy ông Maduro có quan điểm gì?
Tổng thống Maduro nói với hãng tin Nga RIA ông sẵn sàng đàm phán với bên đối lập “vì lợi ích của Venezuela” nhưng sẽ không chấp nhận một tối hậu thư hay đe dọa.
Ông khăng khăng rằng ông có sự ủng hộ của quân đội, và cáo buộc những người bỏ quân đội là có âm mưu đảo chính.
Nhiều sỹ quan quân đội giữ chức bộ trưởng hay các vị trí có ảnh hưởng khác trong chính phủ.
Thời báo New York ngày 3/4/2018 đăng bài viết dưới tiêu đề “Anna Chennault, thế lực đứng sau sân khấu chính trị ở Washington, đã qua đời ở tuổi 94”. Bài báo hé lộ một vài góc khuất trong cuộc đời đầy ắp sự kiện của bà Anna Chennault, tên chữ Hán là Trần Hương Mai (Chen Xiangmei), vợ góa của Trung tướng Không quân Mỹ Claire Chennault, vị chỉ huy phi đội Hổ Bay từng lập công lớn trong cuộc chiến tranh chống phát xít Nhật của nhân dân Trung Quốc.
Trần Hương Mai là nhân vật chống cộng nổi tiếng, nhất là trong thế giới người Mỹ gốc Hoa, từng bỏ nhiều công sức ủng hộ Quốc dân đảng Trung Quốc, Đảng Cộng hòa Mỹ và chính quyền Việt Nam Cộng hòa. Trong bộ ảnh lưu niệm của bà có những bức ảnh chụp chung với các Tổng thống Mỹ Kennedy, Nixon, Ford [và Reagan], với Cục trưởng Cục Điều tra Liên bang (FBI) J. Edgar Hoover, với Tư lệnh quân đội Mỹ tại Nam Việt Nam Westmoreland, và với Phó Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Nguyễn Cao Kỳ…
Trần Hương Mai từng làm Phó Tổng giám đốc Công ty Hàng không Hổ Bay (Flying Tiger Line) do chồng bà lập ra sau Thế chiến II, là tác giả của một số tiểu thuyết, tập thơ; từng làm phát thanh viên Đài Tiếng nói Hoa kỳ (VOA). Bà cũng là nhân vật trung tâm của cộng đồng ngụ tại chung cư nằm trên tầng thượng (penthouse) tổ hợp tòa tháp Watergate complex sang trọng bên dòng sông Potomac ở Washington, nơi tập hợp nhiều thành viên Chính phủ Mỹ, nghị sĩ, nhà ngoại giao, chính khách nước ngoài và nhà báo.
Giới sử gia cho rằng cuộc đời của Trần Hương Mai có những góc khuất ít người biết. Chẳng hạn, bà từng đảm nhiệm vai trò kênh chuyển tiền của Quốc dân Đảng Trung Quốc cung cấp cho Đảng Cộng hòa Mỹ, là nhân vật trung gian bí ẩn trong mối liên hệ giữa các quan chức Mỹ với một số nhà lãnh đạo châu Á như lãnh tụ Quốc dân đảng Trung Quốc Tưởng Giới Thạch và Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Nguyễn Văn Thiệu.
Theo biên bản nghe lén của FBI, Trần Hương Mai từng góp sức phá hoại một nỗ lực tìm kiếm hòa bình trong chiến tranh Việt Nam và hành động này đã giúp Nixon thắng Phó Tổng thống (Dân chủ) Hubert Humphrey trong cuộc tranh cử Tổng thống Mỹ năm 1968.
Cụ thể, không lâu sau khi Tổng thống Johnson tuyên bố tạm ngừng ném bom Bắc Việt Nam, đem lại bầu không khí dễ thở cho cuộc đàm phán Paris mùa thu năm ấy, Trần Hương Mai với tư cách người liên lạc giấu mặt giữa đội tranh cử của Nixon với Chính phủ Việt Nam Cộng hòa đã thúc giục các quan chức Việt Nam Cộng hòa tẩy chay cuộc đàm phán ở Paris, bà nói với họ là nếu họ có thể đợi nước Mỹ bầu xong Tổng thống rồi hãy đàm phán thì Việt Nam Cộng hòa sẽ nhận được sự trợ giúp tốt hơn của Chính phủ Nixon.
Cùng hôm đó (2/11/1968), Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu tuyên bố Chính phủ ông sẽ không tham gia cuộc đàm phán Paris. Ba ngày sau, Nixon đắc cử tổng thống Mỹ.
Sau khi biết tin về sự can thiệp nói trên của Trần Hương Mai, Tổng thống Johnson nổi cơn lôi đình, từng có ý định khởi tố bà ta với tội danh can thiệp bất hợp pháp vào công việc ngoại giao của nước Mỹ, nhưng sau đó ông lại thôi không khởi tố. Có điều Trần Hương Mai cũng bực mình vì chính Nixon đã không thực hiện lời hứa với bà là sau khi trúng cử Tổng thống Mỹ ông sẽ chấm dứt chiến tranh Việt Nam.
Tổng thống Nixon sau khi nhậm chức đã ra lệnh hủy bỏ việc nghe lén điện thoại Trần Hương Mai và dành cho Công ty Hàng không Hổ Bay của bà một tuyến vận tải hàng hóa vượt Thái Bình Dương có khả năng thu lãi lớn. Nhưng Trần Hương Mai vẫn chưa đạt nguyện vọng được giao một chức vụ quan trọng trong Chính phủ Nixon, mặc dù bà đã cung cấp cho đội tranh cử của Nixon những nguồn nhân sự quan trọng và 240.000 USD tiền quyên góp.
Sinh năm 1923 (nhưng khai là 1925) tại Bắc Kinh, Trần Hương Mai là một trong 6 con gái của ông Trần Ứng Vinh và bà Liêu Hương Từ. Cha bà dạy môn luật học tại Đại học Bắc Kinh và làm biên tập viên tờ báo tiếng Anh “Bưu điện Hoa Bắc”. Mẹ bà xuất thân trong một gia đình quan chức ngoại giao và học giả có tiếng, có chú ruột là Liêu Trọng Khải, một nhà cách mạng dân chủ nổi tiếng, lãnh tụ phái tả của Quốc Dân Đảng. Năm 1937, khi quân Nhật tiến gần Bắc Kinh, gia đình bà tản cư về Hong Kong. Sau khi mẹ mất, chị em Trần Hương Mai sống phân tán ở nhiều nơi. Năm 1944, bà tốt nghiệp Đại học Lĩnh Nam.
Thạo tiếng Anh và nhiều tiếng địa phương Trung Quốc, Trần Hương Mai được tuyển vào Thông tấn xã Trung ương Trung Quốc. Tại Côn Minh, nữ phóng viên chiến tranh họ Trần gặp tướng Chennault, người anh hùng của Phi đội Hổ Bay. Phi đội này đã bắn rơi mấy trăm máy bay Nhật [bay từ sân bay Gia Lâm ở Việt Nam sang ném bom tuyến vận tải huyết mạch Myanmar-Côn Minh chở hàng viện trợ Mỹ giúp chính quyền Tưởng Giới Thạch], mang lại hy vọng cho cuộc kháng chiến chống Nhật của người Trung Quốc. Hai người nảy sinh tình cảm với nhau, dù bà kém ông 30 tuổi.
Năm 1947, Chennault ly dị người vợ đã có 8 con với ông và cưới Trần Hương Mai tại Thượng Hải. Sau khi có với nhau hai con gái, họ lập công ty Flying Tiger Line và Civil Air Transport ở Đài Bắc, kinh doanh vận tải hàng không.
Là một người nghiện thuốc lá nặng, năm 1958 Chennault chết vì ung thư phổi ở tuổi 67, Trần Hương Mai mang hai con nhỏ chuyển đến Washington định cư tại Mỹ. Tại đây bà nhận được sự giúp đỡ của những người bạn của chồng, trong đó có Thomas G. Corconran, chiến lược gia của Chính sách Mới (New Deal), chuyên gia kỳ cựu về vận động hành lang. Trong hơn nửa thế kỷ sống ở Mỹ, bà có nhiều hoạt động chính trị sôi nổi, từng tham gia vận động tranh cử cho 8 chính khách Mỹ ứng cử chức Tổng thống Mỹ. Đầu tiên bà vào Đảng Cộng hòa và tham gia lực lượng phái hữu gồm những người Mỹ có thế lực chủ trương ủng hộ Đài Loan, chống Trung Quốc cộng sản. Bà viết báo, diễn thuyết, ra điều trần trước Quốc hội Mỹ, thời gian 1963-1966 còn làm phát thanh viên tiếng Trung Quốc trên đài VOA. Năm 1962, được Tổng thống Kennedy đồng ý, bà lập Cơ quan Cứu tế dân tị nạn Trung Quốc (Chinese Refugees’ Relief), từng giúp hàng nghìn người trốn ra khỏi nước Trung Quốc cộng sản.
Năm 1963, Tổng thống Kennedy mời bà vào làm việc tại Nhà Trắng, trở thành người Hoa đầu tiên làm việc tại cơ quan này. Năm 1968 bà được Tổng thống Nixon mời làm Ủy viên Ủy ban Hành chính Đảng Cộng hòa Mỹ, làm Phó Chủ tịch phụ trách tài chính Đảng. Năm 1972 Trần Hương Mai được chọn vào danh sách 70 người Mỹ có ảnh hưởng nhất. Năm 1980 Tổng thống Reagen cử bà làm Phó Chủ tịch Ủy ban Xuất khẩu của Nhà Trắng, sau đó bà từng hai lần được bầu làm Chủ tịch Ủy ban Toàn quốc các dân tộc ít người của Đảng Cộng hòa, Chủ tịch Ủy ban người Hoa của Đảng này. Năm 1989, Tổng thống Bush mời bà làm Ủy viên Ủy ban Học giả Nhà Trắng. Năm 1991 bà được cử làm Chủ tịch Ủy ban Hợp tác quốc tế của nước Mỹ và Ủy viên Ủy ban Bảo vệ Môi trường thuộc Bộ Nội vụ Mỹ.
Mỗi tuần Trần Hương Mai mời 80-100 khách đến nhà bà, một penthouse nhắc người ta nhớ đến bộ phim về James Bond, đãi họ những món ăn như “concubine’s delight” (thịt gà nấu đậu Hà Lan) và “súp của nhà đàm phán, negotiator’s soup” (vốn dành cho Ngoại trưởng Henry Kissinger). Diện bộ sườn xám bó sát người và giày cao gót, vị mệnh phụ cao khoảng 1,5 m này trở thành nhân vật nổi bật trong các vũ hội do bà tổ chức.
Trần Hương Mai năng đến thăm các quốc gia châu Á bị cuốn vào cuộc Chiến tranh Lạnh và thường tỏ ra mập mờ khi trả lời các câu hỏi về mối quan hệ giữa bà với CIA, những điều đó đã làm cho dư luận cảm thấy bà là một người lắm mưu ma chước quỷ.
Nhưng hình ảnh một nhân vật kiên quyết chống cộng sản trên con người Trần Hương Mai đã phai nhạt khi đầu năm 1981 với tư cách “Đại sứ thân thiện” của Tổng thống Reagan, bà đi thăm Bắc Kinh và Đài Bắc, gặp nhà lãnh đạo Trung Quốc Đặng Tiểu Bình và Tổng thống Đài Loan Tưởng Kinh Quốc. Bà thừa nhận mình đã trở nên ôn hòa, khiêm tốn hơn. Đến thời điểm này, sự nghiệp chính trị của bà đã hoàn toàn thất bại. Chiến tranh Việt Nam kết thúc, Tưởng Giới Thạch và Mao Trạch Đông đã qua đời, nước Mỹ đã cắt quan hệ ngoại giao với Đài Loan và thừa nhận CHND Trung Hoa.
Từ đó trở đi Trần Hương Mai năng về thăm Trung Quốc và có nhiều phát biểu thân thiện với đất nước quê hương của mình, có nhiều đóng góp cho sự phát triển mối quan hệ Mỹ-Trung. Năm 1993, bà được tặng danh hiệu “Công dân danh dự thành phố Nam Kinh”. Năm 2000 được bầu làm Hiệu trưởng danh dự và Cố vấn Học viện Đại Vũ tỉnh Giang Tây. Năm 2003 và 2004 lần lượt làm Hiệu trưởng Danh dự Học viện Ngoại ngữ Công thương Thượng Hải và Đại học Hải Nam. Năm 2010 được tặng “Giải thưởng lớn người Hoa có ảnh hưởng lớn trong thế giới người Hoa”.
Ngày 30/3/2018, nhân vật nổi tiếng chống cộng, chống Việt Nam, “thế lực đứng sau sân khấu chính trị Washington” này trút hơi thở cuối cùng tại nhà riêng, thọ 94 tuổi. Con gái bà cho biết Trần Hương Mai chết bởi một hội chứng gây ra từ lần bà bị đột quỵ hồi tháng 12/2017.
Réunion hay chính thức gọi là La Réunion; trước đây là Île Bourbon. Đảo cách Madagascar 700 km về phía đông và cách Mauritus 200 km về phía tây nam. Réunion có chiều dài là 63 km, rộng 45 km và diện tích khoảng 2.517 km², hiện là một Vùng Đất Hải Ngoại của Pháp. Những người dân sống ở đây tự gọi mình là Réunionnais hay Créoles. Thủ đô là Saint Denis.
SIN-DNI là chữ viết tên Créole của Saint Denis (ảnh của tác giả).
..Năm 1513: người Bồ Đào Nha khám phá ra và gọi tên là đảo Santa Apollonia.
.Năm 1793 gọi là Réunion.
Gần đây thế giới biết nhiều tới đảo Réunion qua tin ngày 29/7/2015, một số mảnh vỡ đã được tìm thấy tại bờ biển đảo Réunion mà tin rằng là của chiếc máy bay 370 của Hãng Hàng Không Mã Lai Malaysia Airline bị mất tích.
Sự kiện này xác thực sự di dân của các người từ Mã Lai Nam Dương vào hàng ngàn năm trước đây tới các đảo ở vùng Ấn Độ dương này được là nhờ các con thuyền chở họ được ‘thuận buồm xui gió’theo dòng nước, gió mùa giống như các mảnh máy bay trôi dạt tới đây ngày nay.
Dấu Chân Vua Việt Lưu Đầy.
Réunion là nơi hai vị Vua Việt Nam Thành Thái và Duy Tân bị đưa đi đày vào tháng 11 năm 1916. Vua Duy Tân đã bước chân lên đảo ngay tại bến cảng vào buổi sáng mà hôm nay tầu tuần du biển của chúng tôi cũng cập bến vào buổi sáng.
Hải cảng Saint Denis (ảnh của tác giả).
Chúng tôi bước chân lên đảo đi tìm dấu chân của Vua Duy Tân.
Vua Thành Thái
Vua Thành Thái (1879-1954) tên mẹ đẻ là Nguyễn Phúc Bửu Lân, vị vua thứ 10 của triều đại Nhà Nguyễn, tại vị từ 1889 đến 1907.
Vua Thành Thái của Đại Nam (nguồn: Wikipedia)
Vì chống Pháp ông bị ép thoái vị và bị quản thúc ở Vũng Tầu (12-9-1907) rồi tới năm 1916 bị đi đầy cùng con là Vua Duy Tân tới Đảo Réunion này.
Ông cùng gia đình thuê một căn nhà ở thành phố Saint Denis tại đảo Réunion.
Đầu tháng 5 năm 1945 (sau khi vua Duy Tân mất), nhờ sự vận động của con gái và con rể của ông và vợ chồng luật sư Vương Quang Nhường, cựu hoàng Thành Thái được cho về Việt Nam.. Ông cùng gia đình sống ở Villa Anna tại Cap Saint Jacques (Vũng Tầu). Ông mất ngày 20-3-1954 tại Sài Gòn và được an táng tại thành An Lăng (lăng Dục Đức) tại xã An Cựu, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên, thọ 75 tuổi.
Vua Duy Tân.
Vua Duy Tân sinh ngày 19 tháng 9-1900 chết ngày 26 tháng 12-1945 nhũ danh là Nguyễn Phúc Vĩnh San, vị vua thứ 11 của Nhà Nguyễn.
Khi vua cha bị ép thoái vị, Khâm sứ Pháp Fernand Ernest Lévecque vào hoàng cung chọn người kế vị. Lúc điểm danh các con của vua Thành Thái thì thiếu mặt thái tử Vĩnh San. Ông trốn dưới gầm giường khi bị lôi ra mặt mày lem luốc. Bị tra hỏi thì thái tử Vĩnh San nói “Ta đang tìm con dế vừa mới xổng”. Vị Khâm Sứ thấy Vĩnh San chỉ mới có 7 tuổi, nhút nhát, thơ dại nên dễ uốn nắn và kiểm soát hơn là chọn những người anh lớn do đó chọn Vĩnh San đưa lên làm vua.. Triều đình lấy tên hiệu cho ông là Duy Tân, có ý muốn ông tiếp nối con đường duy tân không thành của vua cha Thành Thái.
Vị Khâm Sứ Pháp đã lầm, ông cũng có thái độ chống Pháp còn quyết liệt hơn.
Năm 1916, nhân lúc có Thế Chiến thứ I ở Âu Châu ông bí mật liên lạc với các lãnh tụ Thái Phiên, Trần Cao Vân của Việt Nam Quang Phục Hội dự định nổi dậy chống Pháp. Chuyện khởi nghĩa bị bại lột. Ông cùng các lãnh tụ Việt Nam Quang Phục Hội Bị bắt. Trần Cao Vân nhận hết tội để cứu vua. Trần Cao Vân và Thái Phiên bị sử tử còn vua Duy Tân bị đưa đi lưu đầy ở đảo Réunion.
Ngày 3 tháng 11 năm 1916, gia đình vua Thành Thái và Duy Tân lên tàu Guadiana ở Vũng Tầu. Đến ngày 20 tháng 11 họ tới bến Pointe de Galets đảo La Réunion lúc 7 giờ rưỡi sáng. Tại đây, từ chối một biệt thự sang trọng người Pháp dành cho, gia đình cựu hoàng sống trong một căn nhà thuê lại của một người dân ở thành phố Saint-Denis. Vua Duy Tân sống giản dị như những người dân bản xứ.
Về sau Vua Duy Tân bất bình với vua cha vì không hợp tính tình, ông cắt đứt liên lạc với gia đình ra ở riêng.
Ông học vô tuyến điện và mở tiệm Radio-Laboratoire bán và sửa chữa máy thu thanh. Đồng thời, ông học thi tú tài ở trường trung học Leconte de Lisle và học thêm ngoại ngữ, luật học. Ông yêu nhạc, cưỡi ngựa giỏi và viết nhiều thơ văn đăng trong những tờ báo Le Peuple (Dân chúng), Le Progrès (Tiến bộ) dưới biệt hiệu Georges Dry. Bài Variations sur une lyre briée (Những biến tấu của một cây đàn lia gãy vỡ) được giải nhất văn chương của Viện Hàn lâm Khoa học và Văn chương La Réunion năm 1924. Vua Duy Tân còn là hội viên của Hội Tam Điểm (Franc-Macon) (Free Masonry) và Hội Bảo Vệ Nhân Quyền và Quyền Công Dân Địa Phương (nguồn: Wikipedia).
Ông chống chính quyền Vichy theo Đức Quốc Xã. Đã nhiều lần ông xin về trú ngụ ở Pháp nhưng đều bị từ chối.
Khi Thế Chiến Thứ II bùng nổ, ông xem De Gaulle, người lãnh đạo Lực Lượng Kháng Chiến Tự Do Pháp (Forces Françaises Libres) ở hải ngoại được thành lập ở Anh là thần tượng, là hình mẫu cho hoạt động cứu nước của mình (ông hy vọng “nước Pháp Tự Do” và nước Pháp thực dân mà ông chống đối không còn giống nhau). Để tìm một con đường về giúp nước của mình, ông đáp ứng lời kêu gọi giải phóng nước Pháp của De Gaulle. Ông đã thu thập tin tức trong vùng của quân đội Đức qua vô tuyến điện rồi chuyển cho Lực Lượng Kháng Chiến Tự Do Pháp. Vụ việc đổ bể, ông bị nhà cầm quyền La Réunion (lúc đó theo Chính Phủ Vichy) câu lưu sáu tuần. Sau đó, ông được phục vụ với cấp bậc hạ sĩ vô tuyến..
Vua Duy Tân (ở giữa) và các bạn (nguồn: wikipedia)
Về sau ông ra nhập Lực Lượng Tự Do Pháp bắt đầu từ cấp bình nhì rồi được thăng chức lên tới thiếu tá.
Thiếu tá Vĩnh San.
Ngày 14 tháng 12 năm 1945, Charles de Gaulle tiếp cựu hoàng Duy Tân. Trong tập Hồi ký chiến tranh, tướng de Gaulle ghi:
“…Tôi sẽ tiếp Cựu hoàng (Vĩnh San) và sẽ cùng ông xét xem chúng tôi sẽ làm được những gì? Đó là một nhân vật đầy cương nghị. Mặc dù bị lưu đày ròng rã 30 năm trời, hình ảnh của ông không hề phai mờ trong tâm hồn của dân tộc Việt Nam.”
Một bạn thân của Duy Tân là E. F. Thébault kể lại trong bài Destin tragique d’un Empereur d’Annam: Vĩnh San-Duy Tân:
“Trở lại Paris ngày 16 tháng 12 năm 1945, tôi thấy Ngài mặc một bộ đồ nhà binh rất đẹp, có gắn bốn lon. Bây giờ Ngài trọ ở khách sạn Louvres, trước hý viện Pháp. Ngài nói: “Như vậy là xong rồi, quyết định rồi! Chính phủ Pháp sẽ đặt tôi lại trên ngôi Hoàng đế Việt Nam. Tướng De Gaulle sẽ theo tôi trở về bên đó (Việt Nam) vào những ngày đầu tháng 3 (1946).”Từ nay tới đó, người ta sẽ chuẩn bị dư luận của Pháp cũng như quốc tế và Đông Dương. Vả lại, cũng còn cần phải dự thảo các bổn thoả ước giữa hai chính phủ nữa” (nguồn: Wikipedia).
Vua Duy Tân quyết định giành độc lập cho Việt Nam bằng con đường ôn hòa không đổ máu và vẫn nằm trong khối Liên Hiệp Pháp để Việt Nam được che chở. Ông thừa nhận lối chống Pháp lúc còn trẻ của mình là “nóng nảy vụng về”.
Trong hồi ký Bên giòng lịch sử 1940-1965, linh mục Cao Văn Luận ghi lại rằng mùa đông 1944 và đầu năm 1945, cùng với một số du học sinh Việt và Việt kiều, ông có tiếp xúc ba lần với cựu hoàng Duy Tân ở Paris. Lần đầu, cựu hoàng giải thích:
“Người Pháp đang cần sự hợp tác của chúng ta để tái chiếm Đông Dương. Họ có thể chấp nhận cho ta thành một quốc gia tự trị trong Liên Hiệp Pháp. Điều đó không trái với quyền lợi quốc gia. Dần dà chúng ta đòi thêm quyền hành. Chúng ta biết làm gì hơn trước binh lực hùng hậu của Pháp và hậu thuẫn của đồng minh Tây phương? Chúng ta đã thấy những gương chống Pháp và tôi đây là nạn nhân của một lối chống nóng nảy vụng về. Rồi đất nước chúng ta phải chịu một cảnh chiến tranh tàn khốc mà kết quả chưa biết là thắng hay bại”.
Vua Duy Tân đã từng tâm sự:
“Riêng về phần tôi, lòng yêu quê hương Việt Nam không cho phép tôi để ngỏ cửa cho một cuộc tranh chấp nội bộ nào. Điều mà tôi mong muốn là tất cả các con dân Việt Nam ý thức được rằng họ là một quốc gia và ý thức ấy sẽ thức đẩy họ dựng lên một nước Việt Nam xứng đáng là quốc gia. Tôi tin rằng tôi sẽ làm tròn bổn phận của một công dân Việt Nam khi nào mà tôi làm cho những người nông dân Lạng Sơn, Huế, Cà Mau ý thức được tình huynh đệ của họ. Nghĩa hợp quần ấy được thực hiện dưới bất cứ chế độ nào: cộng sản, xã hội chủ nghĩa, bảo hoàng hay quân chủ, điều đó không quan trọng, điều quan trọng là phải cứu dân tộc Việt Nam khỏi cái họa chia rẽ”.
Tuy nhiên, nhiều người cho rằng cựu hoàng Duy Tân đã bị dùng như một con bài chính trị trong kế hoạch mật tái chiếm Đông Dương của Pháp (nguồn: wikipedia).
Ngày 24 tháng 12 năm 1945, cựu hoàng Duy Tân dùng phi cơ Lockheed C-60 của Pháp bay từ Paris trở về La Réunion thăm gia đình trước khi thi hành sứ mạng mới. Máy bay bị nạn ở Cộng Hòa Trung Phi khiến ông thiệt mạng.
Theo nhiều người đây có thể là một vụ mưu sát do người Anh hay một bàn tay nào khác âm mưu. Việc vua Duy Tân trở lại Việt Nam sẽ gây khó khăn cho Anh trong việc trao trả các thuộc địa. Cũng trong Destin tragique d’un Empereur d’Annam, E.P Thébault viết:
“Ngày 17 tháng 12 năm 1945, mười hôm trước khi tử nạn, Duy Tân có linh cảm tính mạng ông bị đe doạ. Lần chót khi cả hai đi ngang vườn Tuileries, cựu hoàng nắm tay Thébault nói: “Anh bạn già Thébault của tôi ơi! Có cái gì báo với tôi rằng tôi sẽ không trị vì. Anh biết không, nước Anh chống lại việc tôi trở về Việt Nam. Họ đề nghị tặng tôi 30 triệu quan nếu tôi bỏ ý định ấy”.
Pháp cho mở hai cuộc điều tra và kết luận không có dấu hiệu đây là một cuộc mưu sát, nhưng đến nay vụ tai nạn máy bay vẫn còn là nghi án lịch sử chưa có lời giải đáp.
Do sự đóng góp của ông trong thời chiến, sau khi chết, chính phủ Pháp trao tặng ông huy chương
Grand Cross of the Legion of Honour và Officer’s Medaille de la Resistance và cũng bầu chọn ông là một Companion of the Orde de la Libération. Ngày 28 tháng 3 năm 1987, hài cốt vua Duy Tân được gia đình đưa từ M’Baiki, Trung Phi về Paris làm lễ cầu siêu tại Viện Quốc tế Phật học Vincennes và sau đó đưa về an táng tại An Lăng, Huế cạnh nơi an nghỉ của vua cha Thành Thái, vào ngày 6 tháng 4 năm 1987.
Vua Duy Tân năm 1930
Ông được tưởng nhớ nhiều. Ở Saigon trước năm 1975, đường Garcerie cũ thời Pháp thuộc được đổi tên là đường Duy Tân. Đây là con đường với hai hàng cây lớn, chạy ngang Trường Đại Học Luật Khoa và Kiến Trúc nơi có Viện Đại Học Saigon nổi tiếng là thơ mộng, đã được nhắc trong bản nhạc “Trả Lại Em Yêu” của Phạm Duy: “Con đường Duy Tân cây dài bóng mát, uống ly chanh đường, uống môi em ngọt…’. Sau năm 1975, đường Duy Tân bị đổi tên thành đường Phạm Ngọc Thạch.
Ngày 5 tháng 12 năm 1992 tại thủ đô Saint Denis đảo Réunion khánh thành đại lộ mang tên ông: Đại lộ Thái tử Vĩnh San.
Chúng tôi đã dự tính đi tìm các dấu chân của cựu hoàng Duy Tân, trước khi lên đường tới thăm đảo Réunion đã liên lạc với một người đàn anh khả kính có cô con gái tên là Titi (không biết có phải lấy theo tên dân dã Việt Nam là Tí Ti không) sống ở đây để nhờ hướng dẫn. Vì Titi bận đi làm nên chúng tôi hẹn gặp Titi vào buổi chiều sau khi đi làm về. Buổi sáng chúng tôi dành thì giờ đi thăm các địa điểm lịch sử đặc biệt và các danh lam thắng cảnh khác (sẽ viết trong bài Réunion Mươi Điều). Chúng tôi hẹn gặp tại tiệm ăn nổi tiếng Le Roland Garros ở đây.
Tiệm Ăn Le Roland Garros (ảnh của tác giả).
Tới đây mới biết Titi sống ở tận phía Nam của đảo không phải ở ngay thủ đô Saint Denis. Giờ tan sở ở đây kẹt xe như ở Los Angeles vì chỉ có một xa lộ vòng quanh đảo sát biển và vách núi ít có đường rẽ ngang nên không thể thoát ra được xa lộ. Chờ mãi tới hơn 7 giờ tối mà Titi hãy còn đậu xe trên xa lộ ở phía Nam của đảo. Nhiều lần tính bỏ cuộc nhưng may là taxi ở đây cũng bị kẹt. Mấy khách du dịch cùng đi trên con tầu của chúng tôi gọi taxi về tầu chờ đã gần ba tiếng rồi mà vẫn chưa thấy bóng dáng xe taxi đâu. Cũng may là đêm nay tầu ngủ qua đêm ở đảo này nên không sợ nhỡ tầu. Titi rất thông minh biết là chúng tôi đang lo nên đã điện thoại nhờ cô bạn nha sĩ người Pháp làm tại Saint Denis đến gặp chúng tôi để trấn an. Hơn tám giờ Titi mới tới.. Chúng tôi quyết định đi ăn tối trước rồi mới đi thăm các nơi vinh danh Thái Tử Vĩnh San ở đây. Vì ăn mãi đồ ăn Tây phương trên tầu đã chán ứ tới cổ, thèm món ăn Việt Nam nên dự định tới một tiệm ăn Việt Nam nổi tiếng nhất ở đây là tiệm Kim Sơn. Rủi thay nhà hàng đóng cửa hôm nay. Cuối cùng chúng tôi quyết định tới tiệm ăn Nhật Shabu Shabu. Khi vào tiệm mới biết chủ là người Đại Hàn.. Cũng đành bằng lòng vậy. Ăn thêm món ăn thịt nướng Đại Hàn cũng còn hơn là đồ ăn trên tầu nhiều.
Titi mặc áo hồng và cô bạn nha sĩ mặc áo đỏ tại tiệm ăn Shabu Shabu.
Tiệm ăn quá đông, hầu ăn chậm kiểu hải đảo nhiệt đới, ăn xong gần nửa đêm, chúng tôi mới lên đường trực chỉ ngay tới Tượng Đài Tưởng Niệm Vua Thành Thái và Duy Tân nằm trên Đại lộ Thái Tử Vĩnh San.
Tượng đài nằm ở một công viên cây cao bóng cả với những cây kè hoàng gia cao rất đẹp
Tấm bảng ở chân Tượng Đài Tưởng Niệm Vua Duy Tân: Để tưởng nhớ hai vị hoàng đế Annam (Vietnam) bị đầy đến đảo Réunion ngày 20 tháng 11 1916 vì nổi dậy chống lại nhà cầm quyền thuộc địa Pháp. Hoàng đế Thành Thái-Thái tử Nguyễn Phúc Bửu Lân (1870-1954). Hoàng đế Duy Tân-Thái tử Nguyễn Phúc Vĩnh San (1900-1945) (ảnh của tác giả).
(có một quảng cáo châm cứu hay áp cứu của một tên Tầu vô học dán lên mặt tượng đài).
Đại lộ Thái Tử Vĩnh San là một trong những con lộ chính nối thủ đô Saint Denis với xa lộ vòng quanh đảo.
Đại lộ Thái tử Vĩnh San khúc gần công viên Tượng Đài Tưởng Niệm về nửa khua (ảnh của tác giả).
Đại lộ Thái tử Vĩnh San.
Cầu Thái tử Vĩnh San vào lúc nửa đêm (ảnh của tác giả)
Cầu Thái tử Vĩnh San vào giờ kẹt xe
Đi bộ trên Cầu Thái tử Vĩnh San vào lúc nửa đêm.
Thấy chúng tôi đi thăm tượng đài và cây cầu Thái tử Vĩnh San vào lúc đêm khuya vắng người, một vài bóng xe đêm chạy qua cầu bấm còi, không rõ là châm chọc hay chia xẻ cảm tình. Có lẽ chúng tôi là hai người Việt hiếm hoi nhất tới thăm vào lúc nửa đêm như thế này. Dĩ nhiên không có Titi và cô bạn chúng tôi đâu dám mạo hiểm. Đây quả thật là một cơ duyên hiếm có với hai vị cựu hoàng Việt Nam.
Tấm bảng ở đầu cầu Thái tử Vĩnh San: Đại Lộ Thái tử Vĩnh San (8/1900-12/1945). Hoàng đế Annam bị lưu đầy tới La Re1union. Chỉ Huy Lực Lượng Tự Do Pháp (ảnh của tác giả).
Thành cầu bây giờ rào kín lại để phòng ngừa tự tử. Cầu Vĩnh San nổi tiếng ở dân địa phương là ‘Cầu Tự Tử’. Nếu hỏi thăn cây Cầu Tự Tử ở đâu thì dân địa phương biết ngay còn hỏi Cầu Hoàng Tử Vĩnh San hay Vua Duy Tân thì ít ai biết.
Số điện thoại của Hiệp Hội Phòng Ngừa Tự Tử: SOS Cô Đơn. Hãy Cứu Giúp Những Linh Hồn (Save Our Soul) Cô Đơn của Chúng Ta (ảnh của tác giả).
Trở lại công viên tượng đài, chúng tôi ngồi lắng nghe tiếng dế kêu than trong đêm vắng.
Chợt nhớ tới Thái tử Vĩnh San lên ngôi vua là nhờ con dế xổ lồng thuở nhỏ. Như đã nói ở trên ông chui vào gầm giường tìm con dế nên vắng mặt lúc viên toàn quyền Pháp điểm danh chọn người lên kế vị vua Thành Thái. Viên toàn quyền thấy ông mặt mày lấm lem, hồn nhiên, trẻ thơ coi con dế hơn ngai vàng và cho rằng ông là đứa trẻ khờ khạo, đần độn dễ sai bảo uốn nắn nên đã chọn ông. Tiếng dế đêm nay ở đây nghe thật bi thương.
Không biết có những đêm thanh vắng nào hồn ông về đây nhập vào tượng mình nghe tiếng dế kêu than van cho mệnh nước Việt Nam. Trong một thoáng tôi nhặt được mấy câu thơ:
Ngày xưa còn bé chui gầm giường,
Tìm con dế bạn thành quân vương. Lưu đầy vì nước giờ thành tượng, Đêm đêm nghe dế khóc quê hương. Giờ đây tôi cũng mất quê hương, Vô tài chỉ biết ngậm đau thương. Giả thử nếu ngài không tử nạn. Nước non mình có thoát tai ương? Nghe dế kêu mà thấy đoạn trường.
Sau đó Titi bao chúng tôi một chầu Saint Denis By Night. Nửa đêm về sáng chúng tôi mới trở về bến cảng cách hơn chục cây số. Bến cảng rộng mênh mông không biết cửa nào vào được tới tầu. Chạy loanh quanh mãi, may mắn gặp một nhân viên làm đêm thấy chúng tôi đi lạc đã đến tiếp cứu dẫn chúng tôi vào cổng dành cho du khách ra vào. Thật cám ơn Titi vì sáng mai lại phải dậy sớm đi làm.
Vào tới trạm kiểm soát vẫn còn thấy đông người ngồi truy cập vào internet. Các nhân viên Á châu làm trên tầu bây giờ mới hết việc ra đây truy cập internet liên lạc về gia đình. Chúng tôi cũng không cầm lòng được ngồi gởi ngay những tấm ảnh hôm nay về nhà mặc dầu mắt đã rũ xuống buồn ngủ.
Sáng hôm sau chúng tôi dành thì giờ cả buổi sáng đi tìm chỗ làm việc và nhà ở của Vua Duy Tân.
Hình ngôi nhà chụp ngày xưa.
Một người bạn cho địa chỉ ở Đại Lộ LaBourdonnais.
Buổi trưa ghé ăn trưa ở một nhà hàng ăn Việt Nam nổi tiếng nhất ở đây: Tiệm Ăn Kim Sơn mà hôm qua chúng tôi muốn mời Titi ăn tối ở đây nhưng nhà hàng đóng cửa.
Tiệm Ăn Kim Sơn.
Bà chủ tiệm là một người Việt ở Pháp. Bà qua đây mở tiệm ăn đã hơn mười năm.
Bà chủ tiệm Kim Sơn.
Gặp người cùng quê hương bà rất ân cần tiếp đón và dành nhiều cảm tình đặc biệt mặc dù rất bận rộn. Thực đơn có nhiều món Việt và Việt lai Pháp. Tôi có thói quen tìm ăn phở ở khắp nơi trên trái đất này.
Phở Kim Sơn ở Đảo La Réunion (ảnh của tác giả).
Phở ở đây nấu theo Phở Bắc gốc Hà Nội. Thịt bò dần cho mềm rồi xào lăn qua một chút. Phở Tái Lăn (Phở Thịt Tái Xào Lăn). Không giá, không rau thơm. Phở làm gợi nhớ tới Phở Thìn Hà Nội. Dĩ nhiên ở đây thiếu cái phong thái bình dân đến độ mất vệ sinh không dám ăn của các quán ăn đại chúng nổi tiếng ở Hà Nội.
Ăn xong chúng tôi ghé Chợ Trung Ương ở ngay bên kia đường. Chợ có đầy đủ các thứ cho du khách mua làm quà kỷ niệm. Tuy nhiên giá sinh hoạt ở đây rất đắt đỏ so với các đảo lân cận nhất là so với Madagascar vì mọi thứ ở đây hầu như đều phải mang từ Pháp qua.
Các cửa hàng ở đường phố cũng thấy có các hàng mỹ nghệ Việt Nam.
Tượng phụ nữ Việt đội khăn vành dây mặc áo dài thời trang tay áo thụng cầm quạt (ảnh của tác giả).
Sau đó chúng tôi đi tìm tới một thư viện mà người bạn cho biết nơi này có nhiều tài liệu về Vua Duy Tân. Rất tiếc không rõ tên và địa chỉ. Chúng tôi có ghé phòng thông tin hỏi thăm. Họ giới thiệu tới một thư viện ở ngay đường phố chính. Ghé đến nhưng không có tài liệu nào về Vua Duy Tân.
Thật thất vọng. Nhưng không còn thì giờ, đành phải về lại tầu.
Dĩ nhiên Đảo Réunion cũng có nhiều danh lam thắng cảnh, một địa điểm du lịch và tĩnh dưỡng yêu chuộng của người Pháp và khối nói tiếng Pháp ở Ấn Độ Dương. Đón xem bài viết Réunion Mươi Điều.
Vua Duy Tân và Thành Thái đều có tên trên Đài Tưởng Niệm ở đây nhưng Vua Duy Tân được vinh danh nhiều hơn qua tên Đại Lộ và Cầu Thái tử Vĩnh San bởi vì sau này cựu hoàng Duy Tân là thiếu tá Vĩnh San trong quân đội Tự Do Pháp. Nếu ngài không bị tử nạn phi cơ bất ngờ, giải pháp De Gaules dù cho có mục đích dùng ngài làm lá bài trong ván cờ với Hồ Chí Minh thì không biết vận mệnh Việt Nam sẽ như thế nào? Dù gì ngài cũng là một người yêu nước ngay từ thưở thiên niên, lòng yêu nước ấm ủ cho tới khi chết. Như đã nói ở trên Ngài đã muốn Việt Nam được độc lập theo một giải pháp ôn hòa trong Liên Hiệp Pháp giống như nhiều thuộc địa Pháp khác không cần phải chiến tranh đổ máu, nồi da sáo thịt. Việt Nam phải nương tựa vào Pháp và đồng minh mới tránh được tai ách bị người Trung Quốc đồng hóa. Âu cũng là vận nước như thế! Nghĩ mà đau đớn nhưng bất lực không làm được gì. ‘Vô tài chỉ biết ngậm đau thương’.
Tầu rời cảng Saint Denis tai vẫn còn vang vọng tiếng tắc kè tắc lưỡi trong bụi cây.
Anh cũng như bao nhiêu người sĩ quan khác ở Miền Nam. Sau 75, đều bị tập trung “cải tạo.” Những tháng đầu anh được vợ gửi cho một hai lần đồ ăn, sau đó thì biệt tăm. Anh được phép viết thư về cho gia đình nhiều lần. Nhưng không thấy vợ trả lời. Như thế kể như anh bị vợ bỏ. Sống trong trại cải tạo mà không có người thăm nuôi, không được tiếp tế đồ ăn, người đó kể như chết. Anh biết mình nằm trong số người bất hạnh đó. Nên anh phải tự lực cánh sinh. Nói chơi cho vui vậy chứ tự lực gì nổi. Có được thăm nuôi hay không, người tù nào cũng co cúm lại. Thức ăn dành dụm từng chút. Ra ngoài lao động, con mắt của họ dáo dác tìm bất cứ thứ gì có thể bỏ vào bụng cho đở đói. Cho nên người có quà thăm nuôi cũng như dân mồ côi, khi ra ngoài lao động cũng xục xạo tìm kiếm đào bới như nhau. Ai tìm được nấy ăn.
Chuyển ra ngoài Bắc anh lại càng tơi tả hơn. Không quen với cái lạnh thấu xương, bụng thì đói meo. Trông anh như một ông cụ già hom hem. Công việc nặng nhọc làm cho anh còm lưng. Ngày trở về thì không thấy hy vọng. Anh cứ nghĩ mình kéo dài tình trạng đói khát, nặng nhọc nầy mãi, thì thế nào cũng bỏ xương tại cái xứ đèo heo hút gió nầy. Trốn trại thì không can đảm.. Mà cũng chẳng biết trốn đi đâu, giữa núi rừng trùng trùng điệp điệp. Đành phải bó tay chịu trận.
Bỗng nhiên một hôm anh nhận được gói đồ ăn gửi bằng đường bưu điện. Anh nghĩ chắc vợ anh gửi cho. Nhưng khi cầm gói quà trên tay nhìn tên người gửi lạ hoắc, anh phân vân, đắn đo. Chắc chắn đây là một sự nhầm lẫn. Tuy nhiên vì đói quá anh không có can đảm hoàn trả lại cho cán bộ, khi mà sự thèm khát đã lên tới tột đỉnh. Mà chắc gì gói quà được trả về cho khổ chủ của nó! Cán bộ trại đời sống cũng chẳng hơn tù bao nhiêu, thế nào họ cũng chia nhau. Trong lúc mình đang cần, anh an ủi mình như vậy. Anh về trại. Bạn bè tới chúc mừng anh. Như vậy, kể từ nay anh thuộc thành phần có thăm nuôi. Không còn mồ côi như trước. Gói quà đã được mở ra kiểm soát, cột lại sơ sài trước khi giao cho anh nhận lãnh.
Ai nhận quà về đến chỗ nằm của mình, đều bóc ngay ra. Còn anh thì không dám đụng đến. Lúc đầu cái đói, cái thèm khát lâu ngày làm cho anh bấn loạn. Anh nghĩ nhận quà về bóc ra ngay ăn một bữa cho đã. Nhưng khi cầm gói quà trên tay, không phải tên vợ mình gửi, anh đâm ra đắn đo. Anh nằm gác tay lên trán nghĩ ngợi về tên người gửi. Anh đào bới hết trí nhớ, vẫn không tìm ra tên người đàn bà nầy, được viết trên góc của gói quà. Bạn bè tù cùng phòng với anh thì nghĩ khác. Họ cho rằng lâu quá không được nhận quà, không nghe tin tức vợ, nên anh muốn kéo dài cảm giác sung sướng. Không bóc vội gói quà. Thế nhưng rồi cũng đến lúc gói quà được mở. Sau khi ăn cơm chiều xong, anh leo lên chỗ nằm, ngồi quay mặt vào vách. Anh trịnh trọng mở gói quà. Quan trọng với anh bây giờ không phải là trong gói quà có những gì để ăn. Giữa lúc nầy, sự thèm khát bỗng nhiên trốn mất. Mà là lá thư trong gói quà nói gì.
“Anh yêu quý,
Anh đã mất tích từ lâu, tưởng rằng anh đã chết. Em và các con lập bàn thờ mấy năm nay. Không ngờ, cách đây mấy hôm, vô tình đến thăm một người bạn, có người anh được thả ra từ trại cải tạo Miền Bắc. Em hỏi thăm là có bao giờ anh nghe tên người nào là Nguyễn Hữu trong trại của anh không? Anh đó trả lời là có một người cùng đội sản xuất với anh mang tên ấy, trước là đại úy thuộc Sư Đoàn 2, người Bắc Kỳ. Từ bao nhiêu năm nay không được ai thăm nuôi. Em nghe xong muốn quỵ xuống, đúng là anh rồi. Thế là từ nay em phải hạ bàn thờ xuống. Các con có bố chứ không còn mồ côi cha nữa. Em mừng quá, mang tên anh, tên đội, tên trại đến Ủy Ban Quân Quản Thành Phố để xin giấy phép gửi quà thăm nuôi. Lý do vì loạn lạc, di chuyển nhiều lần, địa chỉ không còn chỗ cũ, nên không nhận được giấy gửi quà thăm nuôi.
Anh đừng để vi phạm nội quy, ráng học tập tốt, sẽ được nhà nước khoan hồng để sớm về đoàn tụ với gia đình. Có dịp được trại cho phép viết thư, anh viết thư về cho em biết sức khỏe của anh. Anh cần những gì lần sau có giấp phép em sẽ gửi ra cho anh. Em và các con bao giờ cũng mong chờ anh về.
Thư nầy không viết dài được, em ngưng đây. Chúc anh luôn luôn khỏe mạnh.
Vợ anh,
Lê Thị Hồng.”
Anh không dám đọc lại lần thứ hai. Một sự trùng hợp lạ kỳ, anh và ông Hữu kia cùng thuộc Sư Đoàn 2, cùng là người Bắc. Chỉ khác nhau là ông ta mất tích trong chiến tranh, còn anh thì trình diện đi “cải tạo.” Người đàn bà nầy vì quá thương chồng không điều tra cặn kẽ, chứ trong một sư đoàn, chuyện trùng tên, trùng họ là chuyện bình thường. Mà cán bộ kiểm duyệt thư từ cũng lơ đễnh, không thấy chữ mất tích từ đầu lá thư. Anh nhìn gói đồ ăn mà lòng trĩu nặng. Một bên vợ người ta, chồng mất tích bao năm mà vẫn chờ đợi. Còn mình sống sờ sờ vợ chẳng thèm ngó ngàng tới.
Đọc thư xong, anh bỏ thư lại trong gói đồ rồi cột lại như cũ. Anh nằm gác tay lên trán suy nghĩ miên man. Các bạn chung phòng đến hỏi thăm tin tức gia đình anh ra sao, anh trả lời nhát gừng cho qua chuyện. Họ nghĩ, có lẽ gia đình anh đang gặp rắc rối gì đó, nên anh buồn ít nói.
Sáng hôm sau ra lao động, anh không mang thêm cái gì để ra ăn buổi trưa. Anh không biết phải làm sao với gói quà mà anh đã nhận. Anh cảm thấy mình giống như một thằng ăn trộm, oa trữ đồ gian. Không biết phải giải quyết thế nào cho ổn thỏa đây. Mấy năm trời đói khát, thèm ăn. Chụp được một con dế, con cóc thì xem như được một bữa tiệc lớn. Thế mà khi nhận quà có thịt chà bông, cá khô, muối sả ớt v..v… anh lại sờ sợ. Lương tâm ư? Làm gì có thứ nầy ở đây. Anh không biết phải diễn tả thế nào tâm trạng của anh lúc ấy. Vì đụng vào đó, anh thấy mình như bị phạm tội. Buổi trưa, anh ra nhận cơm với vài cọng rau muống, nước muối. Anh lại thèm các thứ mà mình đang giữ. Sự thèm khát lại bắt đầu dằn vặt, hành hạ anh. Anh không thể nào chống lại nổi sự đòi hỏi hợp lý nầy. Thôi thì tới đâu hay tới đó.
Ngày hôm sau anh mang tí ti đồ ăn theo, chia cho một số bạn cùng cảnh ngộ với anh, nghĩa là thuộc dạng mồ côi, không có ai thăm viếng hay gửi quà. Họ ăn một cách ngon lành. Anh ăn cũng ngon miệng nhưng khi ăn xong, anh thấy nghèn nghẹn. Mấy ngày đầu anh mang tâm trạng nầy, nhưng dần dần về sau nguôi ngoai. Hình như sự phạm tội thường xuyên, ít bị lương tâm cắn rứt hơn là phạm tội một đôi lần.
Vài ba tháng sau đó, anh được trại cho phép viết thư về gia đình. Đây là một điều khó khăn cho anh. Gửi thư cho vợ hay gửi cho chị Lê Thị Hồng? Gửi cho vợ thì bao nhiêu cái vẫn biệt vô âm tín, còn gửi cho chị Lê Thị Hồng, thì biết nói sao cho chị hiểu là anh không phải là chồng chị ta. Nếu thư không bị kiểm duyệt thì chuyện nầy dễ nói. Còn thư tù như anh thì qua biết bao nhiêu cửa ải.. Biết đâu khi cán bộ kiểm duyệt phát giác chuyện nầy sẽ tống cổ anh vô cùm. Cái tội mạo nhận ẩu để lãnh đồ thăm nuôi. Một lần cũng là mang tội, mà cái tội nầy bạn bè biết được thì khinh khi lắm. Nhưng mọi chuyện đã lỡ rồi, đành phải theo lao vậy. Anh đánh liều viết theo cái kiểu người chồng viết cho vợ.
“Hồng em,
Cám ơn em rất nhiều về gói quà vừa rồi em gửi cho. Em đừng lo gì cho anh nữa, ở đây anh được nhà nước cách mạng lo cho đầy đủ, ăn uống không thiếu. Em yên tâm để dành lo cho các con. Em ở nhà cố gắng dạy dỗ các con nên người, cố gắng chấp hành chính sách và pháp luật của nhà nước cách mạng.
Nhờ ơn cách mạng, nhờ ánh sáng soi đường, nhờ chính sách khoan hồng của nhà nước ta. Anh học tập đã hiểu thế nào con đường lầm lẫn của mình trước đây. Anh đã ăn năn hối cải và mong sao sau khi được khoan hồng trở về với gia đình, anh sẽ làm lại cuộc đời tốt hơn. Đừng lầm lẫn đi theo con đường cũ nữa, phải sống hòa đồng với nhân dân và tuân thủ pháp luật nhà nước.
Nhắc lại cho em rõ, đừng gửi quà cho anh nữa. Ở đây anh ăn uống rất đầy đủ, hãy dành dụm cho con, lo cho tương lai các con.
Cầu chúc em và các con khỏe mạnh.
Chồng em,
Nguyễn Hữu.”
Anh nhắc lại hai lần chữ “lầm lẫn,” để chị Hồng biết đoán ra mọi sự, không dám viết đi viết lại nhiều lần, sợ cán bộ trại nghi ngờ. Hai ngày sau, văn phòng trại gọi anh lên làm việc. Anh điếng hồn, không biết chuyện gì xẩy ra. Có lẽ vì mấy chữ lầm lẫn đó sao? Người kiểm duyệt sao thông minh quá vậy. Anh vừa đi, vừa tìm cách chạy tội. Nhưng không nghĩ ra cách nào giải thích, anh đổ liều, cứ chối đại ra sao thì ra. Mỗi lần gọi người nào một cách bất thần như vậy, là người đó có vi phạm điều gì. Các bạn tù cùng phòng lo lắng cho anh.
Anh bước vào phòng cán bộ quản giáo, đầy lo âu và không biết chuyện lành dữ ra sao. Người công an chấp cung ngồi trước lá thư của anh viết cho chị Hồng. Anh ta tươi cười mời anh ngồi đối diện, rút trong túi gói thuốc lá mời anh. Một thái độ thân thiện lạ lùng. Anh rút một điếu và chậm rãi hút. Người cán bộ nhìn anh nói:
“Trong trại nầy, ai viết thư về cho gia đình cũng xin cái nầy cái nọ. Riêng anh thì không, lại bảo chị đừng gửi gì cả. Cũng lạ thật. Anh thật sự không thấy cần thiết sao?”
Anh lắc đầu:
“Nhiều năm không được thăm nuôi, quen rồi. Hơn nữa gia đình tôi cũng nghèo. Vợ tôi lo cho các cháu đủ mệt. Lo thêm cho tôi, kiệt sức mất. “
“Anh nghĩ vậy cũng đúng. Các anh ngày trước sung sướng quen rồi, không quen chịu cực khổ. Mới có vài năm đã thấy thèm khát đủ thứ.. Chúng tôi mấy chục năm đánh giặc. Ăn uống kham khổ. Không hề hé răng.”
Người cán bộ nói tiếp:
“Chúng tôi có bỏ đói các anh đâu. Nuôi ăn đầy đủ đấy chứ. Chúng tôi cũng muốn cho các anh về với gia đình. Nghẹt vì các anh chưa thông suốt chính sách cách mạng, nên chúng tôi phải tạm giữ thêm một thời gian nữa.”
Anh ấp úng:
“Vâng, thưa cán bộ.”
Người cán bộ nhìn thẳng vào mặt anh, trịnh trọng nói:
“Thay mặt Quản Giáo trại, tôi biểu dương tinh thần ý thức của anh. Thư anh gửi có giá trị thuyết phục. Anh là trại viên gương mẫu, sẽ được Ban Quản Giáo Trại đề bạt để anh được về sớm với gia đình.”
Mấy thằng làm ăng-ten, cũng nghe cái lời hứa cho về sớm. Nên chúng nó ra sức kiếm điểm, mà có thấy thằng nào được về trước đâu. Anh cười thầm trong bụng với cái chiêu dụ nầy.
Người cán bộ tiễn anh ra cửa và bắt tay thân thiện. Anh hú hồn, thoát được sự căng thẳng. Anh về chỗ nằm. Mấy người bạn tới hỏi thăm tin tức về chuyện nầy. Anh trả lời với họ là bị cán bộ cảnh cáo, vì lá thư viết không đúng tiêu chuẩn. Anh nghĩ thế nào rồi câu chuyện nầy cũng đổ bể. Rồi cũng sẽ đi cùm vài tháng, với cái tội mạo nhận ẩu để lấy quà gửi. Chị Hồng thế nào cũng nhận ra nét chữ, và chữ ký của anh, không phải của chồng. Không cần mấy chữ “lầm lẫn” kia, chị Hồng cũng hiểu hết mọi sự là chồng chị đã chết.
Ngày nầy qua tháng khác, anh vẫn lao động đều đặn. Anh vẫn yên tâm là mình trở lại với vị trí mồ côi muôn thuở. Anh không còn hy vọng có ai đó ngó ngàng tới để gửi cho chút quà thăm nuôi. Người ta có gia đình gửi quà. Người ta có quyền tưởng tượng các món ăn để vỗ an cho cái dạ dày. Vì thế nào có ngày cũng được thăm nuôi, món ăn mình ao ước sẽ được người nhà mang đến. Còn anh chỉ ăn hàm thụ các món đó thôi. Cũng không sao nghĩ ra, cái đói khát triền miên, đã làm cho anh chai lì mọi ao ước. Thần kinh tê liệt và suy sụp đến tận cùng.
Nhận quà thăm nuôi bằng bưu điện lại có tên anh. Lại thêm một lần ngạc nhiên. Lần trước anh không dám mở gói quà, vì biết đó không phải là quà của mình. Không dám đọc thư vì biết thư đó không viết cho mình. Lần nầy thì ngược lại. Về đến chỗ nằm thì anh xáo tung để tìm lá thư ra đọc. Thư viết cũng thắm thiết như lần trước, không hề đá động gì sự lầm lẫn mà anh đã nhấn mạnh. Nét chữ cứng cỏi thể hiện người viết có học thức, thế mà tại sao không biết mọi sự lầm lẫn đó. Trong thư nầy chị Hồng lại hiểu sai vấn đề, nghĩ rằng vì mấy năm không nhận quà thăm nuôi, nên anh giận dỗi. Biết làm sao đây, khi mà anh không có khả năng bày tỏ tự sự. Mặc kệ, cứ thản nhiên mọi chuyện, cứ ăn cho sướng. Phó mặc mọi chuyện cho trời đất. Anh đổ ra cáu kỉnh và lì lợm. Hình như anh muốn tạo ra tình huống nầy, để dễ dàng nuốt trôi mấy miếng thực phẩm thăm nuôi, mà không thẹn với lương tâm.
Mỗi lần sực nhớ lại chuyện quà cáp, anh vội vàng xua đuổi ngay. Nhủ với lòng mình như vậy, nhưng dễ gì quên được điều đó. Mỗi đêm, khi cơn đói hành hạ, các món ăn trong trí tưởng tượng tuôn ra, là hình ảnh chị Hồng lại hiện lên. Đẹp hay xấu lúc nầy đối với anh chẳng cần thiết, nhưng tấm lòng thương chồng của chị đã làm cho anh cảm phục. Thực sự, anh thương hại cho hoàn cảnh côi cút của chị và mấy đứa con. Sống giữa sự khó khăn chung của xã hội, nuôi mấy miệng ăn cũng thấy khó lắm rồi, đừng nghĩ gì xa xôi hơn như chuyện thăm nuôi chồng. Tệ hại hơn nữa, đây không phải là chồng của mình.
Mọi chuyện vẫn bình thường, ngày nầy qua ngày khác trong trại cải tạo. Anh vẫn sinh hoạt chung với các anh em. Bỗng nhiên một ngày, sau khi đi lao động về, anh được loa phóng thanh gọi tên ra khu thăm nuôi, có vợ là Lê Thị Hồng đến thăm. Lần nầy thì anh bối rối thật sự. Anh biết sự gặp nhau nầy rất bẽ bàng và ngượng ngập.. Mọi sự thật sẽ làm cho chị Hồng đau khổ biết mấy. Với anh thì không sao, anh đã biết trước mọi chuyện, anh đã chuẩn bị tinh thần. Dù gì thì anh cũng phải trả lại sự thật nầy. Anh không muốn nó cứ mãi kéo dài, cứ mãi gây cho anh cảm giác phạm tội. Anh cố gắng diễn tả cho chị ấy biết, anh không phải thứ lừa đảo để kiếm miếng ăn. Dù có chết anh cũng chấp nhận, chứ không thể thuộc loài vô loại nầy. Anh nói nhiều, nhiều hơn nữa, để cảm ơn, để chị tha thứ. Anh sợ một vài tháng bị cùm, sợ mất mấy miếng ăn, mà phải để lại sự hiểu lầm trầm trọng. Để chị phải lặn lội khó nhọc, leo đèo vượt suối, từ Sài Gòn ra tận nơi đây thăm một người mà không phải là chồng mình.
Người cán bộ phụ trách dẫn anh ra khu trại thăm nuôi. Từ xa anh nhìn thấy người đàn bà đang ngồi nơi bàn chờ đợi. Tự nhiên anh hồi hộp. Tự nhiên chân anh bước cảm thấy nặng nề. Rồi anh cũng bước tới chỗ chị ngồi. Tim anh muốn vọt ra khỏi lồng ngực. Anh e thẹn như con gái. Thấy xấu hổ và hối hận. Chị Hồng nhìn anh rồi bật khóc. Chị khóc nức nở.. Mặt cúi xuống bàn. Tiếng khóc ấm ức như đang gặp sự bất trắc. Anh ngồi vào vị trí đối diện. Nước mắt anh cũng chảy dài. Anh không nói được với chị câu gì. Những gì anh đã chuẩn bị bay đi đâu cả. Người cán bộ ngồi ở đầu bàn kiểm soát thấy hai người cứ khóc mãi.. Có lẽ anh ta nghĩ rằng vì vợ chồng lâu ngày xa nhau, thương nhớ chồng chất lâu ngày, để họ khóc cho đã nư. Anh ta cũng chẳng cần để ý tới họ. Anh ta vừa đứng dậy đi ra cửa sổ khạc nhổ, anh chụp ngay cơ hội nói với chị: “Xin lỗi…xin lỗi chị…”
Chị ngẩng mặt lên đưa ngón tay giữa miệng, ngụ ý cho anh biết đừng nói gì thêm. Anh thở dài. Tiếng thở của anh nghe rất não nuột. Nhưng trong tiếng thở ấy, như hàm chứa tất cả những gì anh đã chuẩn bị nói ra với chị. Chị lau nước mắt nhìn anh, rồi ấp úng hỏi anh những câu về sức khỏe, những lời khuyên cố gắng học tập tốt để về với gia đình, cho vừa lòng cán bộ kiểm soát. Chị cũng bịa ra những chuyện là con cái vẫn đi học bình thường, cha mẹ khỏe mạnh, tất cả gia đình, dòng họ, trông anh mau về sớm. Anh chỉ gật đầu mà không thốt được lời nào. Chị khóc chiếm hầu hết thời gian thăm nuôi. Hơn ai hết, anh hiểu tiếng khóc của chị. Mọi hy vọng gặp lại chồng xem như hoàn toàn không còn nữa. Chị khóc cho số phận hẩm hiu của mình, thương cho phần số ngắn ngủi của chồng.
Cán bộ báo cho biết giờ thăm nuôi chấm dứt. Chị đưa tay nắm lấy tay anh. Anh đưa hai bàn tay ra ôm lấy tay chị. Tự nhiên, không biết tại sao anh bật khóc lớn. Có lẽ anh thấy tủi thân. Anh thấy lòng thương hại của chị dành cho anh, đây là lần cuối. Làm sao anh đòi hỏi gì hơn, với người đàn bà không phải là vợ mình. Khóc cho mình, mà cũng thương cho chị lặn lội đường xa tìm chồng. Chị lủi thủi trở về với niềm tuyệt vọng. Rồi anh chị chia tay. Anh gánh phần quà của chị mang tới cho anh, vào trại. Chị đứng dựa vào cột tre nhìn theo. Thỉnh thoảng anh quay đầu ngó lại, lần nào chị cũng đưa tay lên vẫy chào. Mọi người trong trại từ xa nhìn thấy cảnh nầy. Ai cũng thông cảm cho cảnh vợ chồng khắng khít, bây giờ phải lìa xa.
Anh gánh vào tới phạm vi giam giữ, thì các bạn anh chạy ra phụ mang đồ về phòng. Anh đứng lại nhìn ra khu thăm nuôi, đưa tay vẫy chào chị cho đến khi chị ra khỏi cổng trại khuất dạng. Anh lầm lũi về chỗ nằm. Đồ đạc còn để lăn lóc dưới đất. Anh chẳng màng sắp xếp. Anh vẫn chưa kịp định thần lại. Những giây phút thật bất ngờ đến với anh nhanh quá. Suốt trong nửa giờ gặp nhau, anh chỉ nói ra được hai tiếng xin lỗi.. Màn kịch do chị diễn ra thật xuất sắc, xuất sắc đến nỗi anh là người trong cuộc, vẫn cảm thấy rất tự nhiên không ngượng ngịu. Không sao hiểu nổi được lòng chị.
Ngồi nhớ lại cảnh gặp gỡ, khi chị ngước mắt lên nhìn anh. Khuôn mặt chị thật đẹp, đôi mắt thật hiền từ. Anh nghĩ chị cũng đã biết trong mấy lá thư gửi về, không phải là thư của chồng. Thế nhưng chị vẫn hy vọng, mong manh hy vọng. Trong mong manh đó chị đổi một giá cho sự phũ phàng, cay đắng. Có lẽ khi nhận thư hồi âm, sau khi đọc, chị thấy thương hại cho anh, thông cảm nỗi thống khổ của anh. Chị quyết định tiếp tục liên hệ với anh, giúp đỡ anh. Khi ra thăm nuôi, chị vẫn biết anh không phải là chồng, nhưng chị vẫn đi. Để xác định rõ ràng, khi gặp anh tức là chồng chị đã chết. Nghiệt ngã thật. Chị bật khóc, vì thương cho chồng thì ít, mà lại thương anh nhiều hơn. Sống một đời tù tội, lao khổ, bị gia đình bỏ rơi. Dù sao chồng nằm xuống cũng đã lâu, nước mắt của chị đã bao năm khóc cho chồng, bây giờ đã khô cạn.. Gặp anh trong một hoàn cảnh thật bi thương, sống giữa một trại tù vô cùng cực khổ, không tin tức gia đình vợ con. Anh đang chơi vơi giữa tận cùng khổ đau, dày xéo trên thân thể những vết hằn tủi nhục. Nước mắt của chị trào ra, khi ngước mắt trông thấy một con người thân thể vừa tiều tụy, vừa đờ đẫn, đang đứng đối diện.
Đêm nay anh nằm đây, nghĩ lại cái cảnh chị lầm lũi bước lên tàu trở về Sài Gòn. Con tàu chạy vùn vụt trong đêm tối. Chỉ còn một mình chị thức, nhìn ra bên ngoài với sự trống vắng. Chị ôm một nỗi buồn sâu lắng. Đất nước đang trải qua một cơn sốt kinh khủng, đày đọa biết bao người lâm vào cảnh khốn cùng. Chị nghĩ sao về anh? Chị có còn giữ liên lạc với anh không?… Dù sau nầy thế nào, dù có giữ liên lạc hay cắt đứt, ơn nầy với anh suốt đời không quên được. Anh hứa với lòng mình, sau khi được trở về, anh sẽ tìm thăm chị. Sẽ nói với chị thật nhiều, cám ơn chị thật nhiều. Thay cho lần gặp gỡ trong trại không nói được. Anh thấy trên con tàu trở về kia, chỉ có mỗi một mình chị. Còn tất cả đều nhạt nhòa. Một mình chị thôi, chứa trên đó nỗi đoạn trường, bất hạnh của một đời người. Nhưng thật vô cùng quý báu của một tấm lòng. Tội nghiệp chị, con tàu đang chở chị lao vào màn đêm, xé tan bóng tối và lạnh lẽo.